Hiển thị các bài đăng có nhãn linux. Hiển thị tất cả bài đăng
Kho phần mềm và ứng dụng cho Linux nói chung và Ubuntu nói riêng là cực kì lớn, nhưng vì là một môi trường "tương đối mới" – nhất là với những người dùng phổ thông đã quen với Windows nên việc tìm và cài đặt được những thứ mình cần trên Linux là khá khó khăn. Dưới đây là một số cách để cài đặt được những phần mềm mới cho Ubuntu dựa vào những công cụ sẵn có.
Phần mềm trên Linux được phân phối như thế nào?
Trên Windows, phần mềm thường được phân phối ra dưới dạng file cài đặt .msi hoặc .exe thì trên Linux cũng gần tương tự như vậy, có điều trên Linux có nhiều hình thức hơn so với Windows. Phần mềm cho Linux thường có ở dưới những dạng sau:
- Trong bộ đĩa cài đặt (thường với những bản phân phối lớn như Redhat, openSuse, Mandriva…)
- Trên trang web của nhà sản xuất (thường có sẵn hướng dẫn cài đặt cho từng hệ thống)
- Trên các repository (gọi tắt: repo) là các nơi chứa phần mềm tập trung trên mạng dành riêng cho một hệ thống nào đó. Trong đó, Ubuntu và Debian sử dụng repo nhiều nhất, kế đến là Fedora và openSuse. Mọi phần mềm đều được chứa tại repo và khi nào người dùng cần thì phần mềm sẽ được tải về từ repo, sau đó cài lên máy. Rất tiện lợi cho việc cập nhật và nâng cấp phần mềm.
Các gói cài đặt phần mềm có thể được lưu ở dạng file chạy trực tiếp (như .exe thường thấy trên Windows…) hoặc ở các định dạng phân phối dành riêng mà phổ biến nhất là .RPM và .DEB (các gói phần mềm này có thể cài đặt dễ dàng và gần như đã thành chuẩn chung cho việc phân phối phần mềm). Phần mềm cũng có thể được phân phối dưới dạng mã nguồn (nhất là phần mềm nguồn mở), người dùng phải tự biên dịch trên máy rồi cài đặt.
RPM và DEB là gì?
Như đã nói ở trên, RPM và DEP là hai định dạng phân phối phần mềm rất phổ biến dành riêng cho Linux. RPM (Redhat package manager) và DEB (Debian software package), chúng giống như định dạng file nén mà trong đó chứa tất cả nhưng file chạy và cấu hình của phần mềm, thông tin về phần mềm, nhà sản xuất, những yêu cầu về hệ thống… Hệ điều hành Linux sẽ có một phần mềm chuyên dùng để cài đặt các gói phần mềm dạng này, nói chung thì phần mềm kiểu này rất dễ dàng để cài đặt.
RPM thường được dùng trong các hệ thống của Redhat như Fedora, openSuse,… còn DEB lại được dùng trên các hệ thống của Debian gồm Debian, Ubuntu…
Mỗi file RPM hoặc DEB chỉ chứa một phần mềm hoặc một phần nào đó của phần mềm. Vì vậy thường khi cài một phần mềm phải cài đặt kèm theo 1, 2 hay thậm chí cả chục gói khác, nên đôi khi xảy ra tình trạng không thể cài đặt do thiếu một gói nào đó. Khi cài đặt bao giờ cũng có một quá trình kiểm tra xem toàn bộ gói cần thiết đã có đầy đủ chưa, nếu thiếu một gói nào đó, quá trình cài đặt sẽ dừng lại. Công việc này được gọi là "check dependency".
Chính vì sự ràng buộc đó nên chúng ta mới cần đến những phần mềm hỗ trợ cài đặt. Những phần mềm này sẽ tự động tải về hoặc tìm tất cả những gói có liên quan rồi lần lượt cài đặt chúng theo đúng thứ tự. Nhờ đó mà việc cài đặt sẽ trở nên suôn sẻ và dễ dàng hơn.
Cài đặt phần mềm
Trong hệ điều hành Linux, có 4 cách cơ bản nhất để cài đặt phần mềm mới như sau:
- Add/Remove (đơn giản nhất, giống Add/Remove trong Control Panel của Windows)
- apt (chạy từ cửa sổ dòng lệnh)
- synaptic (gần như trình Add/Remove nhưng mạnh hơn)
- Cài đặt trực tiếp từ gói phần mềm, hoặc biên dịch từ mã nguồn
1. Sử dụng Add/Remove
Dễ sử dụng và quen thuộc nhất có lẽ là trình Add/Remove sẵn có trong mọi bản Ubuntu.
Bạn chọn menu Applications > Add/Remove... để mở trình cài đặt phần mềm dành riêng cho Ubuntu.
Các hạng mục phần mềm sẽ nằm ở khung bên trái. Khung bên phải sẽ là danh sách các phần mềm, thông tin về phần mềm. Tính năng Search giúp chúng ta tìm kiếm dễ dàng hơn, khi muốn cài đặt phần mềm nào chỉ cần đánh dấu chọn và ấn Apply ở dưới.
Chú ý rằng phần mềm cho Ubuntu được chia làm nhiều hạng mục, mặc định sẽ chỉ hiển thị những phần mềm"hoàn toàn tương thích" hoặc "hoàn toàn phù hợp" với Ubuntu. Nhưng bên cạnh đó vẫn có rất nhiều phần mềm thuộc hãng thứ ba, hoặc những phần mềm chưa được "xếp hạng". Bạn nhắp vào mục chọn Show và chọn danh mục tương ứng để xem cho đầy đủ danh sách phần mềm (tốt nhất là chọn "All available applications").
2. Sử dụng apt-get với cửa sổ dòng lệnh
Khi đã quen thuộc với Linux, thì việc dùng dòng lệnh có lẽ thuận tiện hơn vì khi dùng Add/Remove bạn khó có thể cài đặt riêng một gói thay vì cài trọn cả phần mềm. Thao tác thực hiện như sau:
Chọn menu Applications > Accessories > Terminal để mở cửa sổ dòng lệnh, và từ đó bạn có thể thử những lệnh dưới đây:
- sudo apt-get install xyz: lệnh tiến hành tải về và cài đặt gói xyz (xyz là tên gói cần cài đặt - sẽ cài thêm cả những gói liên quan nếu cần)
- sudo apt-get remove xyz: lệnh gỡ bỏ gói đã cài (có thể sẽ gỡ thêm cả những gói khác nếu thấy không cần đến nữa)
- sudo apt-cache search xyz: lệnh tìm kiếm để đưa ra danh sách những gói có từ cần tìm (giống chức năng search trong Add/Remove)
3. Synaptic: vỏ giao diện cho apt-get
Nói đúng ra thì synaptic không liên quan gì mấy đến apt-get, nhưng quả thực synaptic giống như việc chúng ta dùng apt-get mà có thêm giao diện cửa sổ.
Chọn menu System > Administration > Synaptic Package Manager để mở chương trình này. Chú ý sẽ có hộp thông báo yêu cầu nhập mật khẩu.
Synaptic khó sử dụng hơn hai cách ở trên, nó cho phép bạn cài đặt những gói phần mềm riêng lẻ. Nói chung nó là công cụ cho những người giàu kinh nghiệm hoặc sử dụng Linux lâu năm, không phù hợp lắm với những người mới bắt đầu "trải nghiệm" Linux.
4. Cài đặt trực tiếp từ file .rpm và .deb
Nếu bạn có sẵn file RPM hoặc DEB ở đâu đó trong máy tính thì bạn hoàn toàn có thể cài đặt trực tiếp từ các file đó, miễn là phải đủ các file cấu thành phần mềm (việc này sẽ tránh cho việc phải tải lại từ đầu). Một điều cũng hết sức quan trọng là bạn phải có bản dành cho đúng hệ máy. Ví dụ các file .rpm thường dùng cho Redhat, openSuse, trong khi đó file .deb thường dùng cho Debian và Ubuntu.
Ngoài ra còn là số phiên bản của phần mềm, sử dụng cho loại máy nào. Ví dụ các phần mềm cho máy Intel hay AMD 32bit thường có phần "i386″ hay "i586″ trong tên, cho máy 64bit thì trong tên gói phần mềm sẽ có kí hiệu"am64″, cho các máy dùng chip PowerPC thì có kí hiệu "ppc". Điều này là rất quan trọng vì nếu có gói mà không phù hợp thì bạn cũng không thể cài đặt được.
Để cài file .deb trên Ubuntu thì bạn chỉ việc mở file đó ra như một file bình thường khi đang duyệt thư mục trong Nautilus (trình quản lí tập tin trong Gnome), chương trình quản lí file deb sẽ tự chạy. Chúng ta chỉ việc click vào Install mà thôi.
Còn với file .rpm muốn cài đặt lên Ubuntu phải được chuyển đổi sang dạng .deb. Nhưng nói chung không nên làm như vậy vì thường sẽ xảy ra vấn đề là thiếu tính tương thích. Trên những hệ thống Linux dùng định dạng file .rpm bạn có thể cài file bằng lệnh: su rpm -i xyz với xyz là tên gói cần cài đặt.
Theo Vnreview
Theo đánh giá, Ubuntu 12.10 hơn Windows 8 ở nhiều điểm như giao diện người dùng Unity, khả năng tuỳ biến, yêu cầu phần cứng, bảo mật… Sau khi hệ điều hành mã nguồn mở Ubuntu 12.10 “Quantal Quetzal” chính thức được công bố, trang chủ của Ubuntu xuất hiện khẩu hiệu đầy thách thức: “Avoid the pain of Windows 8”.
Khẩu hiệu này đã thu hút sự chú ý của rất nhiều người. Sau đó, Ubuntu đã hạ khẩu hiệu này xuống, và thay bằng khẩu hiệu mới: “Your wish is our command” (mong ước của bạn là mệnh lệnh với chúng tôi). Giờ đây, sau khi hai hệ hệ điều hành đã chính thức được công bố với công chúng, và sau khi đã xem xét kỹ hai hệ điều hành Ubuntu 12.10 và Windows 8, trang PC World cho rằng khẩu hiệu thách thức đầu tiên không có gì quá đáng!
Ubuntu tích hợp nhiều phần mềm khác nhau, như Firefox, Thunderbird, và bộ sản phẩm đầy đủ tính năng LibreOffice.
Ubuntu là phần mềm nguồn mở nổi tiếng đã có 8 năm trưởng thành và hơn 20 triệu người dùng. Khoảng 5% hệ điều hành máy tính để bàn hiện cài phần mềm Linux, và theo khảo sát ít nhất 50% số đó là Ubuntu.
Giao diện người dùng Unity và Modern
Cả Microsoft và Canonical đều nhận được nhiều nhận xét về giao diện người dùng mặc định của hệ điều hành. Với Windows 8 đó là Modern UI, trước gọi là Metro, còn Ubuntu 12.10 là Unity. Cả hai đều được thiết kế với nhiều tính năng dành cho màn hình cảm ứng và khá giống với thế giới di động. Xoá bỏ nút Start và đại tu cách người dùng tương tác với hệ điều hành, giao diện Modern của Windows 8 đã khiến nhiều người dùng bất ngờ và bối rối.
Trong khi đó, Unity đã là giao diện mặc định của phiên bản Ubuntu 11.04 “Natty Narwhal” từ tháng 4/2011. Unity đã trải qua nhiều lần chỉnh sửa, trưởng thành, nhưng hơn 1 năm qua, Canonical cũng đã thay đổi giao diện này khá nhiều. Mặc dù vẫn có những phê bình, song hầu hết mọi người đều thừa nhận Unity đã trưởng thành và cải tiến. Một số nhà quan sát còn cho rằng Unity quen thuộc với nhiều người dùng Windows lâu năm còn hơn cả Modern của Windows 8.
Khả năng tuỳ biến
Từ lâu, Linux đã nổi tiếng vì khả năng tuỳ biến, nhưng phiên bản Ubuntu 12.10 khiến tính năng tuỳ biến trở nên nổi bật hơn bao giờ hết. Đây là điểm khiến Windows 8 và Ubuntu khác nhau đáng kể. Windows 8 cho phép người dùng tuỳ biến một số khía cạnh môi trường, như kích cỡ của các biểu tượng Live Tile, di chuyển các ô thường sử dụng sang bên trái màn hình, hoặc nhóm các ô vào.
Tuy nhiên, hầu hết các thay đổi mà người dùng làm được trong Windows 8 mang tính thẩm mỹ nhiều hơn, và không có cách để thiết lập Windows 8 trên desktop theo cách truyền thống. Một số ứng dụng của bên thứ ba như Pokki có thể khôi phục tính năng này, nếu không bạn sẽ phải dùng Modern UI. Windows 8 cũng có giao diện khá cứng nhắc, hay nói cách khác là bạn không thể thay đổi được gì nhiều.
Ngược lại, Unity của Ubuntu là UI lỏng lẻo hơn. Đầu tiên, bạn có thể dễ dàng thay đổi UI này bằng một trong những UI miễn phí, bao gồm KDE, Xfce, LXDE, GNOME 3 Shell, Cinnamon, và MATE. Ngoài ra, Unity có các công cụ tuỳ biến của bên thứ ba, bao gồm Ubuntu Tweak, và một số các giao diện Linux khác có nhiều theme để thay đổi hình ảnh nền. Một điều đáng nhắc đến nữa là Ubuntu hỗ trợ không gian làm việc đa người dùng, rất cần thiết để bạn chạy 4 desktop khác nhau. Windows 8 Pro thì không.
Ứng dụng
Trong khi Windows 8 Pro cài sẵn trình duyệt Microsoft Internet Explorer 10, Ubuntu có nhiều gói phần mềm nguồn mở khác như Firefox, Thunderbird, LibreOffice… Ngoài các chương trình gói sẵn này, cả Ubuntu và Windows 8 đều có các kho ứng dụng để gips người dùng tìm ra những phần mềm bổ sung mà họ cần. Ra đời từ năm 2009, Ubuntu Software Center hiện đã có hơn 40.000 ứng dụng, từ các game đến các công cụ hiệu suất đến các ứng dụng giáo dục. Ngoài ra, khi dùng ứng dụng Wine hoặc CodeWeaver's CrossOver, bạn có thể chạy các chương trình Windows thay cho Linux.
Cũng như Windows Store, Ubuntu Software Center cung cấp hàng ngàn ứng dụng, hầu hết miễn phí
Windows Store vừa ra khi có Windows 8, và hiện tại mới có 20.000 ứng dụng. Tuy nhiên, ngoài con số, sự khác nhau lớn giữa hai kho ứng dụng còn nằm ở tính bảo mật. Ubuntu cung cấp hệ thống bảo mật GNU Privacy Guard (GnuPG), trong đó mỗi một ứng dụng lại có một nhận diện vòng chìa khoá (keyring) riêng để xác nhận tính xác thực của nó, và rằng ứng dụng đó chỉ đến từ hệ thống đảm bảo của Ubuntu. Biện pháp bảo vệ này rất hiệu quả, nhằm khẳng định không một ứng dụng mờ ám nào có thể vào kho ứng dụng Ubuntu - hay vào máy tính người dùng.
Microsoft Windows vốn thiếu tính năng bảo vệ keyring. Mặc dù Microsoft hỗ trợ hệ điều hành của hãng bằng Windows Updates hàng tháng, nhưng lại không hỗ trợ bên thứ ba cho những cập nhật đã có. Vì thế, người dùng vẫn phải vào mạng Internet khi tìm kiếm các cập nhật do bên thứ ba hỗ trợ tại những website riêng. Windows Store cũng đã phát triển giải pháp gỡ khó này song thành công hay không còn phải chờ thời gian.
Phần cứng tương thích
Để chạy Windows 8 trên PC, bạn phải có vi xử lý 1HGz hoặc hơn, hỗ trợ PAE, NX, và SSE2. Bạn cũng cần đến RAM ít nhất là 1GB cho phiên bản 32-bit hoặc 2GB cho bản 64-bit, ổ cứng còn 16GB (32-bit) hoặc 20GB (64-bit). Với xử lý đồ hoạ, bạn cần thiết bị đồ hoạ tương thích Microsoft DirectX 9 với ổ WDDM.
Dịch vụ SkyDrive của Microsoft cho phép người dùng tải và đồng bộ các file lên đám mây, sau đó truy cập chúng từ bất kỳ trình duyệt hay thiết bị nội bộ nào
Tất nhiên, đó là những thông số ít nhất của phần cứng. Nếu muốn tận dụng các tính năng cảm ứng của Windows 8, bạn sẽ phải có một thiết bị đa chạm. Trong khi đó, yêu cầu của Ubuntu khiêm tốn hơn: RAM 512MB, ổ cứng còn 5GB. Có các phiên bản Lubuntu and Xubuntu cho những máy có phần cứng thấp hơn. Tóm lại, nếu phần cứng là một yếu tố khó khăn với bạn, Ubuntu là lựa chọn thích hợp hơn.
Tích hợp đám mây
Từ khi ra Ubuntu One vào năm 2009, đám mây đã đóng vai trò chính trong Ubuntu Linux, cho phép người dùng lưu file trực tuyến và đồng bộ chúng giữa máy tính và thiết bị di động, cũng như liền mạch audio và nhạc từ đám mây lên thiết bị di động.
Ubuntu One tương thích với Windows, OS X, iOS, và Android, cũng như trên Ubuntu. Người dùng Ubuntu Linux có 5GB lưu trữ Ubuntu One miễn phí, thêm 20GB sẽ có giá 30 USD/năm. Ubuntu 12.10 cũng tích hợp các ứng dụng web và tìm kiếm trực tuyến trong Unity để mang lại trải nghiệm liền mạch hơn.
Với Windows 8, đám mây cũng đã có trong nền tảng của Microsoft. Về lưu trữ, Microsoft SkyDrive cho người dùng 7GB miễn phí. Nếu cần, bạn sẽ phải trả 10 USD cho 20GB, 25USD cho 50GB hoặc 50 USD cho 100GB hàng năm.
Lưu trữ không phải là lợi ích duy nhất của đám mây. Dịch vụ đăng nhập Microsoft Account mới (trước là Live ID) cho phép bạn chỉ dùng một username và password để thiết lập các ưu tiên trong tất cả các phần cứng và dịch vụ Windows mà bạn làm việc. Về điểm này, Ubuntu không cạnh tranh được với Windows.
Bảo mật
Mặc dù các ứng dụng Windows RT chạy trong môi trường hộp cát (sandbox) để được bảo mật tốt hơn, nhưng ứng dụng Windows 8 Pro lại không như thế. Thay vào đó, các nhà phát triển phần mềm thứ ba lại tự bổ sung các biện pháp bảo mật cho ứng dụng của họ. Windows 8 và Ubuntu Linux đều có bức tường lửa riêng, cũng như có lựa chọn mã hoá toàn bộ đĩa.
Mặc dù Windows 8 Pro cải thiện hơn về bảo mật so với Windows 7, hệ điều hành mới vẫn bị kêu nhiều về vấn đề bảo mật. Để xoa dịu, Microsoft đã cùng với đối tác tạo ra Secure Boot. Như vậy, Windows 8 hiện đã cung cấp hỗ trợ Secure Boot trên hệ thống OEM, còn Ubuntu 12.10 cung cấp loạt tính năng bảo mật tiên tiến như hỗ trợ cài đặt với hệ thống Secure Boot. Ngoài ra, Ubuntu Linux còn cài đặt sẵn Linux Security Modules (LSM), và còn có một số biện pháp bảo mật tiên tiến khác.
Các công cụ quản trị
Windows có Active Directory, dùng các máy chủ Active Directory dành riêng. Ubuntu cũng có Active Directory, người dùng Ubuntu Linux có thể tham gia vào một Active Directory Domain sử dụng phần mềm thứ ba như Likewise Open hoặc Centrify.
Cung cấp một bảng điều khiển dựa trên trình duyệt web, công cụ quản trị Landscape của Ubuntu có thể thực hiện hầu hết các nhiệm vụ Windows Active Directory
Canonical còn có Landscape, một công cụ quản trị dành cho doanh nghiệp và có thể thực hiện hầu hết các nhiệm vụ Windows Active Directory. Landscape là một panel điều kiện dựa trên trình duyệt, dễ sử dụng, qua đó bạn có thể kiểm soát máy tính, máy chủ và đám mây.
Hỗ trợ VPN
Những người dùng cần hỗ trợ mạng riêng ảo sẽ thấy nó trong cả Windows 8 và Ubuntu 12.10. Ở Ubuntu, tiện ích cung cấp là OpenVPN, sử dụng một giao thức bảo mật tuỳ chỉnh dựa trên SSL/TLS. Cả hai hệ điều hành đều hỗ trỡ các giao thức khác nhau, nhưng tuỳ thuộc vào từng nhu cầu cụ thể.
Hỗ trợ người dùng
Microsoft hỗ trợ người dùng Windows 8 Pro qua dịch vụ thuê bao TechNet với giá khởi điểm là 149 USD/năm. Canonical cung cấp các thoả thuận dịch vụ Ubuntu Advantage với giá khởi điểm khoảng 80 USD/năm cho cấp độ desktop chuẩn.
Giá cả
Ubuntu Linux miễn phí, còn Windows 8 đương nhiên phải mất tiền.
Theo XHTT
Sau một vài lần trễ hẹn, cuối cùng thì phiên bản beta của hệ điều hành Fedora 18 dựa trên nền tảng Linux đã được phát hành.
Ngày phát hành phiên bản beta đã được công bố tới 6 thời điểm khác nhau trong vòng hai tháng qua, sự chậm trễ này chủ yếu là do đánh giá chưa chính xác các bước cần thiết để hoàn thiện lại phần mềm Anaconda, nền tảng dùng để cài đặt hoặc nâng cấp Fedora.
"Đó là một sự sai lầm về mốc thời gian", Robyn Bergeron, người đứng đầu dự án Fedora nói.
Việc phát hành phiên bản Beta của Fedora 18, được đặt tên mã là "Spherical Cow", được ấn định vào ngày 8 tháng 1, 2013, chậm hơn gần hai tháng sau mốc thời điểm ban đầu, và khoảng bảy tháng sau ngày phát hành của Fedora 17.
"Do tính chất của Anaconda đó là cài đặt một hệ điều hành mới trên máy tính trong khi vẫn giữ tất cả các dữ liệu nguyên vẹn cho người sử dụng, nhóm phát triển Fedora muốn chắc chắn rằng tất cả mọi thứ đã làm việc một cách chính xác nhất để có thể phát hành", Robyn Bergeron nói.
Phần mềm Anaconda mới cho Fedora 18 có thể giải quyết một phạm vi rộng lớn dữ liệu của người sử dụng bằng cách tinh giản các quá trình cài đặt và cung cấp các thông báo lỗi một cách hữu ích hơn. Khi phiên bản này được hoàn thành, Anaconda sẽ trở nên trực quan hơn và dễ dàng sử dụng hơn.
Bergeron nói, sự chậm trễ này sẽ không ảnh hưởng đến ngày phát hành và phân phối của các phiên bản Fedora trong tương lai, vẫn tuân theo các mốc dự kiến là vào khoảng tháng Năm và tháng Mười hàng năm.
Với phần mềm Anaconda mới này, Fedora 18 sẽ cung cấp các cải tiến lớn về khả năng sử dụng cho bất kỳ người dùng nào. "Tôi nghĩ mọi người sẽ thực sự bị ấn tượng bởi phiên bản này", Bergeron nói.
Fedora 18 đi kèm với một số tính năng và các phần mềm mới. Bản phát hành này sẽ là bản đầu tiên được cung cấp cho máy tính để bàn Mate, series tiếp theo của phiên bản máy tính để bàn Gnome. Nó bao gồm phiên bản Eucalyptus 3.1 - một phần mềm mã nguồn mở. Ngoài ra trong gói phần mềm của Fedora còn là một tập hợp mới các lệnh dùng để quản lý các công nghệ lưu trữ một cách thống nhất, chẳng hạn như LVM (Logical Volume Manager), BTFS (B-tree file system), và MD raid (Multi devide RAID ).
Fedora 18 cũng cập nhật các ứng dụng mới, bao gồm Samba 4, Gnome 3.6, Perl 5.16, Python 3.3; Rails 3.2; OpenStack bản mới nhất - Folsom.
Fedora 18 beta không bao gồm UEFI (Unified Extensible Firmware Interface), một sáng kiến mới dùng để bảo vệ máy tính chống lại các phần mềm độc hại bằng cách thiết kế firmware của máy tính, nó sẽ yêu cầu một khóa đáng tin cậy khi khởi động. Điều này chứng tỏ UEFI sẽ yêu cầu nhiều cải tiến hơn để có thể cài đặt trên Fedora 18.
Tổ chức Red Hat sẽ sử dụng Fedora như một phiên bản cao nhất của Red Hat Enterprise Linux, kết hợp thêm nhiều cập nhật vào hệ điều hành chủ đạo của mình. Red Hat sẽ trả tiền cho những đóng góp để phát triển hệ điều hành này của những tình nguyện viên trên khắp thế giới. Công ty phần mềm mã nguồn mở DistoWatch đã chọn hệ điều hành Fedora Linux để phân phối nhiều nhất – theo một thống kê được tạo ra trên trang web của công ty.
Tuần trước, những người phát triển của Linux Mint cũng đã phát hành một phiên bản mới - Linux Mint 14 bao gồm các cải tiến cho Mate và các desktop Cinnamon, cũng như các cải tiến đáng kể cho hệ thống trung gian (mdm) dùng để quản lý các script và các phần mềm.
Bạn có thể download tại đây.
Theo Vnreview
Khi quyết định biên dịch lại nhân hệ điều hành (tức kernel), có nghĩa là hoặc các cấu hình trong nhân hiện thời chưa đủ đáp ứng yêu cầu của bạn, hoặc bạn đang nâng cấp lên kernel mới nhất, chẳng hạn nâng cấp từ 2.4 lên 2.6 để hoạt động được với chức năng Bluetooth.
Ngay cả khi bạn đã khá hài lòng với kernel hiện tại, bạn vẫn có thể biên dịch lại để thử nghiệm một điều gì đó nếu thích.
Mã nguồn kernel
Nếu bạn đang nâng cấp lên mã nguồn kernel mới nhất, bạn có thể tải về từ website: www.kernel.org.
Gói mã nguồn thông thường được đặt dưới dạng file nén bzip. Sau khi tải về, copy nó vào thư mục /usr/src và giải nén.
Mã nguồn kernel
Nếu bạn đang nâng cấp lên mã nguồn kernel mới nhất, bạn có thể tải về từ website: www.kernel.org.
Gói mã nguồn thông thường được đặt dưới dạng file nén bzip. Sau khi tải về, copy nó vào thư mục /usr/src và giải nén.
[root@haxbox src]# tar -jxvf linux-2.6.15.4.tar.bz2
Cấu hình kernel
Chuyển tới thư mục /usr/src/linux-2.x.x.x. Nếu bạn đang biên dịch lại kernel cũ, thư mục này đã tồn tại; nếu không, đây sẽ là thư mục mới được tạo /usr/src/linux-2.6.15.4.
Trong trường hợp này bạn sẽ phải cấu hình nhân kernel. Nếu muốn cho phép hỗ trợ Bluetooth cho kernel mới, bạn nên thực hiện khi cấu hình kernel. Có 3 cách thức cấu hình khác nhau.
a. make config: phương thức này đưa ra các yêu cầu lặp về thành phần bao hàm và loại trừ.
Chuyển tới thư mục /usr/src/linux-2.x.x.x. Nếu bạn đang biên dịch lại kernel cũ, thư mục này đã tồn tại; nếu không, đây sẽ là thư mục mới được tạo /usr/src/linux-2.6.15.4.
Trong trường hợp này bạn sẽ phải cấu hình nhân kernel. Nếu muốn cho phép hỗ trợ Bluetooth cho kernel mới, bạn nên thực hiện khi cấu hình kernel. Có 3 cách thức cấu hình khác nhau.
a. make config: phương thức này đưa ra các yêu cầu lặp về thành phần bao hàm và loại trừ.
b. make menuconfig: một giao diện theo kiểu menu dạng văn bản được thể hiện, cho phép bạn thực hiện các hoạt động tương tự nhưng dễ dàng hơn nhiều theo phương thức phỏng đoán.
c. make xconfig: giao diện đồ họa trên cơ sở X để cấu hình kernel.
Cá nhân tôi dùng make menuconfig:
[root@haxbox src]# make menuconfig
Các thành phần kernel có thể được biên dịch ở một trong ba trạng thái: dựng sẵn vào trong nhân (hiển thị bằng dấu *), như một modul (hiển thị bằng ký tự 'M') và không biên dịch (N). Trong một số trường hợp, các thành phần này chỉ có thể được biên dịch như một modul.
Sau khi cấu hình xong kernel, ghi lại cấu hình hiện tại.
Bước tiếp theo là tạo ảnh (bzImage).
Sau khi cấu hình xong kernel, ghi lại cấu hình hiện tại.
Bước tiếp theo là tạo ảnh (bzImage).
[root@haxbox linux-2.4.21-4.EL]# make bzImage
Lệnh này tạo ảnh nén kernel mới boot từ đó. File ảnh tạo ra sẽ được tự động ghi lại trong thư mục/usr/src/linux-2.4.21-4.EL/arch/i386/boot.
Tiếp theo là các thành phần đã được biên dịch theo kiểu modul.
Tiếp theo là các thành phần đã được biên dịch theo kiểu modul.
[root@haxbox linux-2.4.21-4.EL]# make modules
Sau đó, cài đặt modul, dùng:
[root@haxbox linux-2.4.21-4.EL]# make modules_install
Cuối cùng bạn cần cấu hình các bộ load khởi động (bootloader). Nếu muốn sử dụng thủ tục tự động, chạy:
[root@haxbox linux-2.4.21-4.EL]# make install
Tại thời điểm này, có thể bạn thích xem nội dung của thư mục /boot/grub/grub.conf. Các nội dung này phản ánh những thay đổi có được sau khi thực hiện lệnh make install. Khởi động lại máy và bạn có thể boot kernel mới.
Kernel 2.6
Lỗi liên quan đến QM_MODULES, khởi tạo (init)…
Nếu bạn đang nâng cấp kernel lên 2.6, chú ý một số lỗi sau:
a, init not found - không tìm thấy file khởi tạo.
b, Error related to QM_MODULES: lỗi liên quan đến modul QM_MODULES.
…
Giải pháp cho vấn đề là nâng cấp module-init-tools.
Download phiên bản mới nhất của bộ công cụ này, đọc phần README trước, sau đó chạy:
Kernel 2.6
Lỗi liên quan đến QM_MODULES, khởi tạo (init)…
Nếu bạn đang nâng cấp kernel lên 2.6, chú ý một số lỗi sau:
a, init not found - không tìm thấy file khởi tạo.
b, Error related to QM_MODULES: lỗi liên quan đến modul QM_MODULES.
…
Giải pháp cho vấn đề là nâng cấp module-init-tools.
Download phiên bản mới nhất của bộ công cụ này, đọc phần README trước, sau đó chạy:
./configure --prefix=/
make moveold
make
make install
Bây giờ dịch mô hình cũ /etc/modules.conf sang /etc/modprobe.conf với script ./generate-modprobe.conf có trong module-init-tools của bạn tải về:
./generate-modprobe.conf /etc/modprobe.conf
Các lỗi sẽ được xử lý.
Vấn đề RPM
Chắc hẳn các bạn đã từng phải đối mặt với vấn đề có trong chương trình quản lý gói redhat cũ với kernel 2.6. Khi đó, bạn cần nâng cấp bản RPM mới nhất.
Vấn đề RPM
Chắc hẳn các bạn đã từng phải đối mặt với vấn đề có trong chương trình quản lý gói redhat cũ với kernel 2.6. Khi đó, bạn cần nâng cấp bản RPM mới nhất.
Theo: QuanTriMang
Định dạng file nén RAR và 7-Zip có nguồn gốc từ Windows và không được hỗ trợ tự động trong Unix như Gzip và TAR trước đây. Nhưng với một phần mềm chuẩn, bạn có thể sử dụng các file này mà không gặp phải phiền phức gì.
Trước hết chúng ta làm quen với một số điểm cơ bản. RAR, tên viết tắt của Roshal Archive, là định dạng file nén có bản quyền do Eugene Roshal phát triển. Trước đó, Roshal đã bán tiện ích thương mại có tên WinRAR cho Windows, đồng thời cũng cung cấp miễn phí bản client chỉ giải nén cho một số hệ điều hành.
7-Zip là một ứng dụng Windows, được thiết kế để quản lý hầu hết các kiểu file nén. Định dạng tự nhiên của nó là 7z, sử dụng một nhánh thuật nén hiện đại của LZ77. Ứng dụng Windows 7z và bộ phát triển phần mềm đều đã được cung cấp với tên LGPL.
Hai kiểu định dạng này tạo tỷ lệ nén tốt hơn nhiều cho các kiểu dữ liệu phổ biến so với một số thuật toán cũ. Chúng cũng hỗ trợ phân tách các lưu trữ lớn thành nhiều bộ nhỏ hơn nhằm di chuyển và khôi phục lỗi dễ dàng. Sự kết hợp cả hai định dạng khiến chúng trở thành lựa chọn số một cho phân phối trực tuyến của các file cực lớn như ảnh ISO 7z và Linux.
7z và Linux
7-Zip là ứng dụng mã nguồn mở, nhưng chỉ dành cho kiểu file Windows. Với người dùng Linux, các liên kết dự án với gói client command-line được đặt tên p7zip cung cấp hai thực thi: 7z và 7za. Cả hai có cùng cú pháp và tuỳ chọn, chỉ khác ở chỗ 7za là ứng dụng "tự chứa" chỉ được dùng cho 7z và một số định dạng Unix chủ yếu (tar, gzip, bzip2, v.v…). Còn 7z dùng cấu trúc plug-in, cho phép hỗ trợ nhiều định dạng nén bổ sung khác.
Cú pháp cơ bản: 7z function options ten_file.7z. Để giải nén một lưu trữ, dùng 7z x ten_file.7z. Bạn cũng có thể giải nén file bằng cách: 7z e ten_file.7z . Trong đó, hàm e có thể giải nén tất cả file vào thư mục hiện tại đang hoạt động, còn x duy trì đường dẫn của chúng.
RAR và Linux
Trường hợp của RAR thì phức tạp hơn một chút do nó có bản quyền của định dạng file. Trên website RARLAB cung cấp phiên bản chỉ dùng giải nén có bản quyền nhưng miễn phí cho khách hàng Linux, gọi là unrar. Bản này được thiết kế cho phân phối Intel 32-bit trong cả hai gói RPM, Slackware; như các mã nhị phân độc lập cho hệ thống Intel 64-bit, PowerPC; và các hệ thống Linux ARM. Chương trình unrar của RARLAB được cung cấp thành phần mềm miễn phí và phần mềm nguồn mở nên bạn sẽ không thấy bất kỳ phân phối Linux nào có tích hợp nó trong hệ điều hành. Bạn có thể download một đoạn mã nguồn tarball trên RARLAB, nhưng quy định bản quyền kèm theo cấm bạn dùng nó để phát triển bất kỳ chương trình mã hoá RAR nào.
Một lựa chọn khác là công cụ dòng lệnh có bản quyền GPLv2, do dự án Gna! phát triển. Gna! urar được thiết kế như một bộ bọc quanh unrarlib, thư viện mã hoá RAR nguồn mở do Christian Scheurer và Johannes Winkelmann, những người không thuộc Gna! phát triển.
Scheurer và Winkelmann phát triển thư viện unrarlib từ mã nguồn RARLAB nguyên bản ban đầu, nhưng vẫn phải cần các quyền do Eugene Roshal cho phép để trở thành phần mềm miễn phí. Do đó, có thể hiểu unrarlib được phát triển từ GPLv2 và bản quyền ban đầu của RARLAB.
Hợp đồng bản quyền này có vẻ là con đường thú vị để thực hiện phần mềm chạy cuối quanh RARLAB và tạo chương trình mã hoá RAR tin học từ mã nguồn ban đầu, nhưng cho tới nay điều này vẫn chưa diễn ra. Sheurer không cảm thấy thích thú với ý tưởng này. Tác giả nói rằng, anh thích dùng các định dạng nguồn mở để tạo lưu trữ hơn. "Không phải lúc nào bạn cũng có thể lựa chọn được kiểu định dạng dữ liệu. Vì thể, thật tuyệt nếu có cách thức mở để truy cập nó. Nhưng bạn có thể chọn cách tạo ra một lưu trữ. Nếu không muốn sử dụng các công cụ nén nguồn đóng, có nhiều lựa chọn khác cho bạn".
Chương trình giải nén unrar có bản quyền sử dụng cú pháp cơ bản như 7z và 7za. Để giải nén, lưu trữ và duy trì đường dẫn file, gõ unrar x ten_file_luu_tru.rar. Trong GPL unrar, bạn cần thêm một dấu nối trước x:unrar -x ten_file_luu_tru.rar.
Hiện nay, thư viện unrarlib chỉ hỗ trợ phiên bản 2 (version 2) của định dạng file RAR. Sắp tới đây, định dạng RAR3 mới hơn có thể sẽ được hỗ trợ trong unrarlib, nhưng Scheurer nói rằng, anh không chắc có thể hy vọng một số kích hoạt lại từ RARLAB.
Hỗ trợ giao diện người dùng GUI
Nếu bạn thực hiện được hầu hết mọi việc trên chương trình Window Manager của Linux, bạn thật may mắn. Cả GNOME và KDE đểu có các chương trình quản lý lưu trữ đồ hoạ. File Roller cho GNOME và Ark cho KDE. Hầu hết mọi phiên bản gần đây của cả hai chương trình đều dùng cơ chế plug-in, hỗ trợ nhiều định dạng lưu trữ khác nhau và dựa trên p7zip để hỗ trợ cho 7z, dựa trên Gna! unrar hỗ trợ cho RAR. Mặc dù vậy, để giải quyết vấn đề không tương thích của các file RAR3 mới, bạn vẫn cần cài đặt chương trình unrar có bản quyền trên máy của mình.
Như đã đề cập đến ở phần đầu, cả 7z và RAR đều hỗ trợ phân tách các file lớn thành nhiều phần nhỏ hơn. Nhưng trong chương trình kiểm tra, cả File Rooler và Ark đều nhận ra rằng một thư mục đầy đủ với các file được đánh số lần lượt myfile.7z.001, myfile.7z.002, myfile.7z.003, v.v… tạo một file 7z phân tách thành các đoạn có kích thước theo bite.
Do đó, để có dữ liệu bên trong, bạn cần liên kết các file phân tách lại thành một file hoàn chỉnh trên dòng lệnh, sử dụng lệnh cat: cat ten_file.7z.001 ten_file.7z.002 ten_file.7z.003 > ten_file.7z. Một file hoàn chỉnh gắn lại từ các phần sẽ được tạo, đặt tên là ten_file.7z. Tại thời điểm đó, bạn có thể mở lưu trữ trong File Roller hoặc Ark. Nhưng sẽ nhanh hơn nếu gõ 7z x ten_file.7z.
Trước hết chúng ta làm quen với một số điểm cơ bản. RAR, tên viết tắt của Roshal Archive, là định dạng file nén có bản quyền do Eugene Roshal phát triển. Trước đó, Roshal đã bán tiện ích thương mại có tên WinRAR cho Windows, đồng thời cũng cung cấp miễn phí bản client chỉ giải nén cho một số hệ điều hành.
7-Zip là một ứng dụng Windows, được thiết kế để quản lý hầu hết các kiểu file nén. Định dạng tự nhiên của nó là 7z, sử dụng một nhánh thuật nén hiện đại của LZ77. Ứng dụng Windows 7z và bộ phát triển phần mềm đều đã được cung cấp với tên LGPL.
Hai kiểu định dạng này tạo tỷ lệ nén tốt hơn nhiều cho các kiểu dữ liệu phổ biến so với một số thuật toán cũ. Chúng cũng hỗ trợ phân tách các lưu trữ lớn thành nhiều bộ nhỏ hơn nhằm di chuyển và khôi phục lỗi dễ dàng. Sự kết hợp cả hai định dạng khiến chúng trở thành lựa chọn số một cho phân phối trực tuyến của các file cực lớn như ảnh ISO 7z và Linux.
7z và Linux
7-Zip là ứng dụng mã nguồn mở, nhưng chỉ dành cho kiểu file Windows. Với người dùng Linux, các liên kết dự án với gói client command-line được đặt tên p7zip cung cấp hai thực thi: 7z và 7za. Cả hai có cùng cú pháp và tuỳ chọn, chỉ khác ở chỗ 7za là ứng dụng "tự chứa" chỉ được dùng cho 7z và một số định dạng Unix chủ yếu (tar, gzip, bzip2, v.v…). Còn 7z dùng cấu trúc plug-in, cho phép hỗ trợ nhiều định dạng nén bổ sung khác.
Cú pháp cơ bản: 7z function options ten_file.7z. Để giải nén một lưu trữ, dùng 7z x ten_file.7z. Bạn cũng có thể giải nén file bằng cách: 7z e ten_file.7z . Trong đó, hàm e có thể giải nén tất cả file vào thư mục hiện tại đang hoạt động, còn x duy trì đường dẫn của chúng.
RAR và Linux
Trường hợp của RAR thì phức tạp hơn một chút do nó có bản quyền của định dạng file. Trên website RARLAB cung cấp phiên bản chỉ dùng giải nén có bản quyền nhưng miễn phí cho khách hàng Linux, gọi là unrar. Bản này được thiết kế cho phân phối Intel 32-bit trong cả hai gói RPM, Slackware; như các mã nhị phân độc lập cho hệ thống Intel 64-bit, PowerPC; và các hệ thống Linux ARM. Chương trình unrar của RARLAB được cung cấp thành phần mềm miễn phí và phần mềm nguồn mở nên bạn sẽ không thấy bất kỳ phân phối Linux nào có tích hợp nó trong hệ điều hành. Bạn có thể download một đoạn mã nguồn tarball trên RARLAB, nhưng quy định bản quyền kèm theo cấm bạn dùng nó để phát triển bất kỳ chương trình mã hoá RAR nào.
Một lựa chọn khác là công cụ dòng lệnh có bản quyền GPLv2, do dự án Gna! phát triển. Gna! urar được thiết kế như một bộ bọc quanh unrarlib, thư viện mã hoá RAR nguồn mở do Christian Scheurer và Johannes Winkelmann, những người không thuộc Gna! phát triển.
Scheurer và Winkelmann phát triển thư viện unrarlib từ mã nguồn RARLAB nguyên bản ban đầu, nhưng vẫn phải cần các quyền do Eugene Roshal cho phép để trở thành phần mềm miễn phí. Do đó, có thể hiểu unrarlib được phát triển từ GPLv2 và bản quyền ban đầu của RARLAB.
Hợp đồng bản quyền này có vẻ là con đường thú vị để thực hiện phần mềm chạy cuối quanh RARLAB và tạo chương trình mã hoá RAR tin học từ mã nguồn ban đầu, nhưng cho tới nay điều này vẫn chưa diễn ra. Sheurer không cảm thấy thích thú với ý tưởng này. Tác giả nói rằng, anh thích dùng các định dạng nguồn mở để tạo lưu trữ hơn. "Không phải lúc nào bạn cũng có thể lựa chọn được kiểu định dạng dữ liệu. Vì thể, thật tuyệt nếu có cách thức mở để truy cập nó. Nhưng bạn có thể chọn cách tạo ra một lưu trữ. Nếu không muốn sử dụng các công cụ nén nguồn đóng, có nhiều lựa chọn khác cho bạn".
Chương trình giải nén unrar có bản quyền sử dụng cú pháp cơ bản như 7z và 7za. Để giải nén, lưu trữ và duy trì đường dẫn file, gõ unrar x ten_file_luu_tru.rar. Trong GPL unrar, bạn cần thêm một dấu nối trước x:unrar -x ten_file_luu_tru.rar.
Hiện nay, thư viện unrarlib chỉ hỗ trợ phiên bản 2 (version 2) của định dạng file RAR. Sắp tới đây, định dạng RAR3 mới hơn có thể sẽ được hỗ trợ trong unrarlib, nhưng Scheurer nói rằng, anh không chắc có thể hy vọng một số kích hoạt lại từ RARLAB.
Hỗ trợ giao diện người dùng GUI
Nếu bạn thực hiện được hầu hết mọi việc trên chương trình Window Manager của Linux, bạn thật may mắn. Cả GNOME và KDE đểu có các chương trình quản lý lưu trữ đồ hoạ. File Roller cho GNOME và Ark cho KDE. Hầu hết mọi phiên bản gần đây của cả hai chương trình đều dùng cơ chế plug-in, hỗ trợ nhiều định dạng lưu trữ khác nhau và dựa trên p7zip để hỗ trợ cho 7z, dựa trên Gna! unrar hỗ trợ cho RAR. Mặc dù vậy, để giải quyết vấn đề không tương thích của các file RAR3 mới, bạn vẫn cần cài đặt chương trình unrar có bản quyền trên máy của mình.
Như đã đề cập đến ở phần đầu, cả 7z và RAR đều hỗ trợ phân tách các file lớn thành nhiều phần nhỏ hơn. Nhưng trong chương trình kiểm tra, cả File Rooler và Ark đều nhận ra rằng một thư mục đầy đủ với các file được đánh số lần lượt myfile.7z.001, myfile.7z.002, myfile.7z.003, v.v… tạo một file 7z phân tách thành các đoạn có kích thước theo bite.
Do đó, để có dữ liệu bên trong, bạn cần liên kết các file phân tách lại thành một file hoàn chỉnh trên dòng lệnh, sử dụng lệnh cat: cat ten_file.7z.001 ten_file.7z.002 ten_file.7z.003 > ten_file.7z. Một file hoàn chỉnh gắn lại từ các phần sẽ được tạo, đặt tên là ten_file.7z. Tại thời điểm đó, bạn có thể mở lưu trữ trong File Roller hoặc Ark. Nhưng sẽ nhanh hơn nếu gõ 7z x ten_file.7z.
Khi mở một shell, bạn cần đến tài khoản kích hoạt vào thư mục chủ (thông thường nằm trong /home/tên_người_dùng).
Chú ý rằng mỗi lệnh đều có nhiều tùy chọn riêng của mình. Để xem các tùy chọn cho một lệnh cụ thể, đơn giản bạn chỉ cần gõ "man <command>" (trong đó: man là từ khóa; command là tên lệnh). Một điểm quan trọng cần chú ý là trong các hệ điều hành Linux, câu lệnh có phân biệt chữ hoa, chữ thường. “A” sẽ được hệ điều hành hiểu là khác so với “a”.
Để vào hệ thống file, dùng:
- pwd: đưa ra ngoài màn hình thư mục đang hoạt động (ví dụ: /etc/ssh).
- cd: thay đổi thư mục (ví dụ: cd .. – ra một cấp thư mục hiện tại; cd vidu – vào thư mục /vidu).
- ls: đưa ra danh sách nội dung thư mục.
- mkdir: tạo thư mục mới (mkdir tên_thumuc).
- touch: tạo file mới (touch ten_file).
- rmdir: bỏ một thư mục (rmdir ten_thumuc).
- cp: copy file hoặc thư mục (cp file_nguồn file_đích).
- mv: di chuyển file hoặc thư mục; cũng được dùng để đặt lại tên file hoặc thư mục (mv vị_trí_cũ vị_trí_mới hoặc mv tên_cũ tên_mới).
- rm: loại bỏ file (rm tên_file).
Để tìm kiếm file, bạn có thể dùng:
- find <tiêu chuẩn tìm kiếm>: dùng cho các tên file.
- grep < tiêu chuẩn tìm kiếm>: để tìm nội dung trong file.
Để xem một file, bạn có thể dùng:
- more <tên file>: hiển thị file theo từng trang.
- cat < tên file>: hiển thị tất cả file.
- head < tên file>: hiển thị các dòng đầu tiên.
- tail < tên file>: hiển thị các dòng cuối cùng (có thể hữu ích trong những trường hợp như khi bạn muốn xem thông tin cuối cùng của một file hệ thống).
Để chính sửa file, bạn phải sử dụng trình soạn thảo tích hợp sẵn trên dòng lệnh. Thông thường, đây là vi và được dùng với cú pháp: vi <tên file>.
Để giải nén một lưu trữ (thông thường có đuôi tar.gz), bạn phải dùng lệnh tar với cú pháp tar -xvf <tên_file>.
Để in một file, dùng lệnh lpr <tên_file>. Chú ý là bạn phải có một số daemon hoạt động để quản lý máy in. Thông thường đây là các cup (chủ yếu là UNIX Printing System) có thể sử dụng cho tất cả các phân phối chính.
Để loại bỏ file khỏi hàng đợi ở máy in (bạn có thể lên danh sách hàng đợi bằng lệnh lpq), sử dụng câu lệnhlprm <tên_file>.
Để lắp hoặc gỡ bỏ thiết bị (thêm vào hệ thống file với vai trò như một phương tiện được phép sử dụng), dùng:
- mount /mnt/floppy: lắp thêm ổ mềm.
- umount /mnt/floppy: gỡ bỏ ổ mềm.
- mount /mnt/cdrom: lắp ổ CD-ROM.
- mount /mnt/cdrom: gỡ ổ DC-ROM.
Các thiết bị này thường được cài và cho phép sử dụng một cách tự động. Nhưng có thể một ngày đẹp trời nào đó bạn lại phải tự mình thực hiện công việc này khi có lỗi xảy ra. Đừng lo lắng!
Để tạo một phân vùng
Đầu tiên, tạo một thư mục trong /mnt (mkdir /mnt/ổ_đĩa_mới). Sau đó sử dụng lệnh mount (mount /dev/source /mnt/ ổ_đĩa_mới), trong đó /dev/source là thiết bị (tức phân vùng) bạn muốn lắp thêm vào hệ thống file.
Nếu muốn kết nối tới một host từ xa, sử dụng lệnh ssh. Cú pháp là ssh <tên_host>.
Quản lý hệ thống:
- ps: hiển thị các chương trình hiện thời đang chạy (rất hữu ích: ps là cái nhìn toàn bộ về tất cả các chương trình).
Trong danh sách đưa ra khi thực hiện lệnh ps, bạn sẽ thấy có số PID (Process identification - nhân dạng tiến trình).
Con số này sẽ được hỏi đến khi muốn ngừng một dịch vụ hay ứng dụng, dùng lệnh kill <PID>.
- top: hoạt động khá giống như Task Manager trong Windows. Nó đưa ra thông tin về tất cả tài nguyên hệ thống, các tiến trình đang chạy, tốc độ load trung bình… Lệnh top -d <delay> thiết lập khoảng thời gian làm tươi lại hệ thống. Bạn có thể đặt bất kỳ giá trị nào, từ .1 (tức 10 mili giây) tới 100 (tức 100 giây) hoặc thậm chí lớn hơn.
- uptime: thể hiện thời gian của hệ thống và tốc độ load trung bình trong khoảng thời gian đó, trước đây là 5 phút và 15 phút.
Thông thường tốc độ load trung bình được tính toán theo phần trăm tài nguyên hệ thống (vi xử lý, RAM, ổ cứng vào/ra, tốc độ load mạng) được dùng tại một thời điểm. Nếu tốc độ được tính toán là 0.37, tức có 37% tài nguyên được sử dụng. Giá trị lớn hơn như 2.35 nghĩa là hệ thống phải đợi một số dữ liệu, khi đó nó sẽ tính toán nhanh hơn 235% mà không gặp phải vấn đề gì. Nhưng giữa các phân phối có thể khác nhau một chút.
- free: hiển thị thông tin trên bộ nhớ hệ thống.
- ifconfig <tên_giao_diện>: để xem thông tin chi tiết về các giao diện mạng; thông thường giao diện mạng ethernet có tên là eth(). Bạn có thể cài đặt các thiết lập mạng như địa chỉ IP hoặc bằng cách dùng lệnh này (xem man ifconfig). Nếu có điều gì đó chưa chính xác, bạn có thể stop hoặc start (tức ngừng hoặc khởi_động) giao diện bằng cách dùng lệnh ifconfig <tên_giao_diện> up/down.
- passwd: cho phép bạn thay đổi mật khẩu (passwd người_dùng_sở_hữu_mật_khẩu hoặc tên người dùng khác nếu bạn đăng nhập hệ thống với vai trò root).
- useradd: cho phép bạn thêm người dùng mới (xem man useradd).
Dù ở phân phối nào, bạn cũng có thể dùng phím TAB để tự động hoàn chỉnh một lệnh hoặc tên file. Điều này rất hữu ích khi bạn quen với các lệnh. Bạn cũng có thể sử dụng các phím lên, xuống để cuộn xem các lệnh đã nhập. Bạn có thể dùng lệnh đa dòng trên một dòng. Ví dụ như, nếu muốn tạo ba thư mục chỉ trên một dòng, cú pháp có thể là: mkdir thư_mục_1 ; mkdir thư_mục_2 ; mkdir thư_mục_3.
Một điều thú vị khác nữa là các lệnh dạng pipe. Bạn có thể xuất một lệnh thông qua lệnh khác. Ví dụ: man mkdir | tail sẽ đưa ra thông tin các dòng cuối cùng trong trang xem "thủ công" của lệnh mkdir.
Nếu lúc nào đó được yêu cầu phải đăng nhập với tài khoản gốc (tức "siêu" admin của hệ thống), bạn có thể đăng nhập tạm thời bằng cách dùng lệnh su. Tham số -1 (su-1) dùng để thay đổi thư mục chủ và cho các lệnh đã hoặc đang dùng. Chú ý là bạn cũng sẽ được nhắc một mật khẩu.
Để thoát hay đóng shell, gõ exit hoặc logout.
Chú ý rằng mỗi lệnh đều có nhiều tùy chọn riêng của mình. Để xem các tùy chọn cho một lệnh cụ thể, đơn giản bạn chỉ cần gõ "man <command>" (trong đó: man là từ khóa; command là tên lệnh). Một điểm quan trọng cần chú ý là trong các hệ điều hành Linux, câu lệnh có phân biệt chữ hoa, chữ thường. “A” sẽ được hệ điều hành hiểu là khác so với “a”.
Để vào hệ thống file, dùng:
- pwd: đưa ra ngoài màn hình thư mục đang hoạt động (ví dụ: /etc/ssh).
- cd: thay đổi thư mục (ví dụ: cd .. – ra một cấp thư mục hiện tại; cd vidu – vào thư mục /vidu).
- ls: đưa ra danh sách nội dung thư mục.
- mkdir: tạo thư mục mới (mkdir tên_thumuc).
- touch: tạo file mới (touch ten_file).
- rmdir: bỏ một thư mục (rmdir ten_thumuc).
- cp: copy file hoặc thư mục (cp file_nguồn file_đích).
- mv: di chuyển file hoặc thư mục; cũng được dùng để đặt lại tên file hoặc thư mục (mv vị_trí_cũ vị_trí_mới hoặc mv tên_cũ tên_mới).
- rm: loại bỏ file (rm tên_file).
Để tìm kiếm file, bạn có thể dùng:
- find <tiêu chuẩn tìm kiếm>: dùng cho các tên file.
- grep < tiêu chuẩn tìm kiếm>: để tìm nội dung trong file.
Để xem một file, bạn có thể dùng:
- more <tên file>: hiển thị file theo từng trang.
- cat < tên file>: hiển thị tất cả file.
- head < tên file>: hiển thị các dòng đầu tiên.
- tail < tên file>: hiển thị các dòng cuối cùng (có thể hữu ích trong những trường hợp như khi bạn muốn xem thông tin cuối cùng của một file hệ thống).
Để chính sửa file, bạn phải sử dụng trình soạn thảo tích hợp sẵn trên dòng lệnh. Thông thường, đây là vi và được dùng với cú pháp: vi <tên file>.
Để giải nén một lưu trữ (thông thường có đuôi tar.gz), bạn phải dùng lệnh tar với cú pháp tar -xvf <tên_file>.
Để in một file, dùng lệnh lpr <tên_file>. Chú ý là bạn phải có một số daemon hoạt động để quản lý máy in. Thông thường đây là các cup (chủ yếu là UNIX Printing System) có thể sử dụng cho tất cả các phân phối chính.
Để loại bỏ file khỏi hàng đợi ở máy in (bạn có thể lên danh sách hàng đợi bằng lệnh lpq), sử dụng câu lệnhlprm <tên_file>.
Để lắp hoặc gỡ bỏ thiết bị (thêm vào hệ thống file với vai trò như một phương tiện được phép sử dụng), dùng:
- mount /mnt/floppy: lắp thêm ổ mềm.
- umount /mnt/floppy: gỡ bỏ ổ mềm.
- mount /mnt/cdrom: lắp ổ CD-ROM.
- mount /mnt/cdrom: gỡ ổ DC-ROM.
Các thiết bị này thường được cài và cho phép sử dụng một cách tự động. Nhưng có thể một ngày đẹp trời nào đó bạn lại phải tự mình thực hiện công việc này khi có lỗi xảy ra. Đừng lo lắng!
Để tạo một phân vùng
Đầu tiên, tạo một thư mục trong /mnt (mkdir /mnt/ổ_đĩa_mới). Sau đó sử dụng lệnh mount (mount /dev/source /mnt/ ổ_đĩa_mới), trong đó /dev/source là thiết bị (tức phân vùng) bạn muốn lắp thêm vào hệ thống file.
Nếu muốn kết nối tới một host từ xa, sử dụng lệnh ssh. Cú pháp là ssh <tên_host>.
Quản lý hệ thống:
- ps: hiển thị các chương trình hiện thời đang chạy (rất hữu ích: ps là cái nhìn toàn bộ về tất cả các chương trình).
Trong danh sách đưa ra khi thực hiện lệnh ps, bạn sẽ thấy có số PID (Process identification - nhân dạng tiến trình).
Con số này sẽ được hỏi đến khi muốn ngừng một dịch vụ hay ứng dụng, dùng lệnh kill <PID>.
- top: hoạt động khá giống như Task Manager trong Windows. Nó đưa ra thông tin về tất cả tài nguyên hệ thống, các tiến trình đang chạy, tốc độ load trung bình… Lệnh top -d <delay> thiết lập khoảng thời gian làm tươi lại hệ thống. Bạn có thể đặt bất kỳ giá trị nào, từ .1 (tức 10 mili giây) tới 100 (tức 100 giây) hoặc thậm chí lớn hơn.
- uptime: thể hiện thời gian của hệ thống và tốc độ load trung bình trong khoảng thời gian đó, trước đây là 5 phút và 15 phút.
Thông thường tốc độ load trung bình được tính toán theo phần trăm tài nguyên hệ thống (vi xử lý, RAM, ổ cứng vào/ra, tốc độ load mạng) được dùng tại một thời điểm. Nếu tốc độ được tính toán là 0.37, tức có 37% tài nguyên được sử dụng. Giá trị lớn hơn như 2.35 nghĩa là hệ thống phải đợi một số dữ liệu, khi đó nó sẽ tính toán nhanh hơn 235% mà không gặp phải vấn đề gì. Nhưng giữa các phân phối có thể khác nhau một chút.
- free: hiển thị thông tin trên bộ nhớ hệ thống.
- ifconfig <tên_giao_diện>: để xem thông tin chi tiết về các giao diện mạng; thông thường giao diện mạng ethernet có tên là eth(). Bạn có thể cài đặt các thiết lập mạng như địa chỉ IP hoặc bằng cách dùng lệnh này (xem man ifconfig). Nếu có điều gì đó chưa chính xác, bạn có thể stop hoặc start (tức ngừng hoặc khởi_động) giao diện bằng cách dùng lệnh ifconfig <tên_giao_diện> up/down.
- passwd: cho phép bạn thay đổi mật khẩu (passwd người_dùng_sở_hữu_mật_khẩu hoặc tên người dùng khác nếu bạn đăng nhập hệ thống với vai trò root).
- useradd: cho phép bạn thêm người dùng mới (xem man useradd).
Dù ở phân phối nào, bạn cũng có thể dùng phím TAB để tự động hoàn chỉnh một lệnh hoặc tên file. Điều này rất hữu ích khi bạn quen với các lệnh. Bạn cũng có thể sử dụng các phím lên, xuống để cuộn xem các lệnh đã nhập. Bạn có thể dùng lệnh đa dòng trên một dòng. Ví dụ như, nếu muốn tạo ba thư mục chỉ trên một dòng, cú pháp có thể là: mkdir thư_mục_1 ; mkdir thư_mục_2 ; mkdir thư_mục_3.
Một điều thú vị khác nữa là các lệnh dạng pipe. Bạn có thể xuất một lệnh thông qua lệnh khác. Ví dụ: man mkdir | tail sẽ đưa ra thông tin các dòng cuối cùng trong trang xem "thủ công" của lệnh mkdir.
Nếu lúc nào đó được yêu cầu phải đăng nhập với tài khoản gốc (tức "siêu" admin của hệ thống), bạn có thể đăng nhập tạm thời bằng cách dùng lệnh su. Tham số -1 (su-1) dùng để thay đổi thư mục chủ và cho các lệnh đã hoặc đang dùng. Chú ý là bạn cũng sẽ được nhắc một mật khẩu.
Để thoát hay đóng shell, gõ exit hoặc logout.
Nguồn: Quantrimang
Bài này sẽ hướng dẫn các bạn cách phục hồi một máy tính cũ với hệ điều hành nguồn mở miễn phí Linux và phần hướng dẫn cài đặt nhanh, hợp lý.
Bạn có thể làm được gì với một chiếc máy tính cũ? Chẳng hạn như dòng PC 386, chạy hệ điều hành Windows 98, chưa được vá lỗi hay sửa chữa, vốn để xó hàng năm nay với ổ cứng 20 GB hầu như đã trở thành “mái nhà” trú ngụ của virus, spyware và các chương trình không ăn khớp khác?
Quẳng nó vào thùng rác? Quyên tặng cho một trường học hay tổ chức xã hội nào đó? Hoặc sử dụng hệ điều hành Linux để mang lại sức sống mới, trả về đúng chức năng của một desktop với hoạt động của trình duyệt hay dịch vụ e-mail client?
Chiếc máy tính đầu tiên đem ra thử nghiệm vốn chỉ được dùng để lướt Web và chat. Nó chưa hề được nâng cấp bất cứ cái gì kể khi mua về (năm 1999). Nếu thử nghiệm thành công, PC này sẽ trở thành chiếc máy tính thứ hai phục vụ cho nhiều dự án khoa học và giúp ích những chủ nhân ham thích mày mò tìm hiểu, nghiên cứu thế giới mạng. Nếu kém may mắn, dù đã cố gắng phục hồi mà máy vẫn không hoạt động như ý muốn thì vị trí tốt nhất dành cho nó là…bãi rác (có khi chợ đồ cũ cũng được!!).
Bước đầu tiên bạn cần thực hiện là lựa chọn một phân phối Linux. Bạn có thể tham khảo trên trang Linux Distribution Chooser. Ở đó có tất cả các phân phối của hệ điều hành nguồn mở cho bạn lựa chọn. Đầu tiên, chúng ta sẽ lấy ví dụ với phân phối Ubuntu.
Ubuntu được đánh giá là phân phối Linux được sử dụng nhiều nhất hiện nay.
Có nhiều người đã cài đặt Ubuntu như sau:
Bước đầu tiên bạn cần thực hiện là lựa chọn một phân phối Linux. Bạn có thể tham khảo trên trang Linux Distribution Chooser. Ở đó có tất cả các phân phối của hệ điều hành nguồn mở cho bạn lựa chọn. Đầu tiên, chúng ta sẽ lấy ví dụ với phân phối Ubuntu.
Ubuntu được đánh giá là phân phối Linux được sử dụng nhiều nhất hiện nay.
Có nhiều người đã cài đặt Ubuntu như sau:
- Đầu tiên download chương trình cài đặt miễn phí có sẵn rất nhiều trên mạng Internet, sau đó ghi vào một đĩa CD (hoặc lưu trực tiếp vào máy).
- Chuyển hết các file dữ liệu sang ổ không cài đặt, đề phòng trường hợp bị mất dữ liệu.
- Cấu hình máy tính (dùng meunu BIOS ) để boot phân phối từ đĩa CD.
- Thực hiện tiến trình boot.
- Chọn liên kết “Install Ubuntu”.
- Chờ một lúc.
- Sau khoảng từ 10 đến 20 phút, màn hình đỏ nâu và con trỏ sặc sỡ xuất hiện.
- Chương trình cài đặt dừng lại.
- Thử một vài lần khác với một số tuỳ chọn cài đặt khác nhưng vẫn không thành công.
Vấn đề nằm ở chỗ bạn không thể biết được cái gì đang diễn ra “sau cánh gà”. Ubuntu cũng được xây dựng theo kiểu hệ điều hành thân thiện với người dùng như Mac OS X. Nó ẩn tất cả hoạt động khó hiểu bên trong của chương trình cài đặt sau giao diện đồ hoạ. Do đó, bạn không thể xác định chính xác lỗi xảy ra là gì và nằm ở chỗ nào.
Mặt khác, Ubuntu là “phân phối Linux hàng đầu cho mọi người”, trong khi cái chúng ta cần là cài đặt Linux trên máy tính “quá đát”.
Bạn có thể thử nghiệm với một phân phối khác, Debian, cũng là một trong những phân phối nổi tiếng nhất trong họ Linux. Nhưng Debian đòi hỏi một chút hiểu biết kỹ thuật. Cài đặt Debian như sau:
Mặt khác, Ubuntu là “phân phối Linux hàng đầu cho mọi người”, trong khi cái chúng ta cần là cài đặt Linux trên máy tính “quá đát”.
Bạn có thể thử nghiệm với một phân phối khác, Debian, cũng là một trong những phân phối nổi tiếng nhất trong họ Linux. Nhưng Debian đòi hỏi một chút hiểu biết kỹ thuật. Cài đặt Debian như sau:
- Download chương trình cài đặt miễn phí của Debian trên Internet, lưu trữ vào một thư mục trên máy tính hoặc ghi vào một đĩa CD.
- Tìm hiểu và thu thập thông tin về máy tính (kích thước màn hình, kiểu chuột…) trên các phần hướng dẫn.
- Boot hệ điều hành từ đĩa CD (hoặc trực tiếp từ thư mục đã lưu trữ trên máy).
- Thực hiện: Đĩa CD chỉ có thành phần tối thiểu giúp bạn cài đặt được các các thư mục cục bộ và kết nối tới Internet. Sau đó, chương trình cài sẽ download một phần phần mềm có tên APT, hỗ trợ download tất cả các phần còn lại của hệ điều hành cùng với nhiều ứng dụng khác nhau. Trong quá trình cài đặt, bạn sẽ được đưa ra lựa chọn server có thể download APT. Nếu chọn ngẫu nhiên, dù bạn thử nhiều lần sẽ vấn không thực hiện được. Đó là vấn đề thuộc về kết nối mạng. Thay đổi một số thiết lập modem cáp, router và địa chỉ IP, vấn đề có thể được giải quyết. Sau khi mạng thực sự đi vào hoạt động, quay trở lại màn hình download APT và lựa chọn server ATP khác (có thể chọn ngẫu nhiên).
- Khoảng một giờ sau (có thể lâu hơn), APT sẽ tập hợp tất cả các thành phần của hệ điều hành.
- Sau khi thiết lập thêm một số tuỳ chọn cấu hình, quá trình cài đặt hoàn tất. Bạn có thể ghé thăm một số trang Web trên FireFox, chơi Tetris hay một số trò khác và đưa PC vào đúng vị trí của nó.
Không thể nói đây là công việc dễ dàng, mặc dù nhìn bề ngoài có vẻ rất đơn giản. Bạn cần lựa chọn đúng phân phối phù hợp, và tất nhiên sẽ mất thời gian thử nghiệm một số phân phối mới tìm ra được cái có thể cài đặt trên những chiếc máy cũ sắp bỏ đi. Bạn cũng cần mốt số kinh nghiệm xử lý lỗi, nhiều khi rất khó hiểu mà chẳng rõ nó là cái gì, nằm ở đâu và tại sao lại xuất hiện trong quá trình cài đặt. Nhưng may mắn là họ Linux đủ đa dạng và đủ phong phú cho bạn thực hiện tốt công việc của mình.
Có thể bạn chưa sẵn sàng chính thức chuyển sang dùng Linux, do sự phổ biến của phần mềm Windows tại gia đình, nơi làm việc và ở nhiều công ty lớn. Nhưng có một chiếc máy tính cũ để thử nghiệm, chắc chắn bạn sẽ khám phá được nhiều điều thú vị về hệ điều hành nguồn mở này.
Với các doanh nghiệp nhỏ vốn không dễ bỏ ra hàng nghìn đô la để nâng cấp phần cứng và phần mềm máy tính, chắc hẳn sẽ rất tuyệt vời khi áp dụng ý tưởng đem cuộc sống mới vào những chiếc PC cũ, dùng hệ điều hành miễn phí. Nó đủ nhanh và đủ an toàn cho các yêu cầu cơ bản.
Khi Internet đang hướng đến công nghệ Web 2.0, bạn sẽ không còn cần nhiều đặc quyền hay bỏ hầu bao mua bản quyền mới sử dụng được nhiều ứng dụng desktop trên hệ điều hành Windows.
Bạn có phải là một doanh nghiệp nhỏ sử dụng hệ điều hành Linux? Hãy xem chúng hoạt động ra sao và thú vị như thế nào!
Có thể bạn chưa sẵn sàng chính thức chuyển sang dùng Linux, do sự phổ biến của phần mềm Windows tại gia đình, nơi làm việc và ở nhiều công ty lớn. Nhưng có một chiếc máy tính cũ để thử nghiệm, chắc chắn bạn sẽ khám phá được nhiều điều thú vị về hệ điều hành nguồn mở này.
Với các doanh nghiệp nhỏ vốn không dễ bỏ ra hàng nghìn đô la để nâng cấp phần cứng và phần mềm máy tính, chắc hẳn sẽ rất tuyệt vời khi áp dụng ý tưởng đem cuộc sống mới vào những chiếc PC cũ, dùng hệ điều hành miễn phí. Nó đủ nhanh và đủ an toàn cho các yêu cầu cơ bản.
Khi Internet đang hướng đến công nghệ Web 2.0, bạn sẽ không còn cần nhiều đặc quyền hay bỏ hầu bao mua bản quyền mới sử dụng được nhiều ứng dụng desktop trên hệ điều hành Windows.
Bạn có phải là một doanh nghiệp nhỏ sử dụng hệ điều hành Linux? Hãy xem chúng hoạt động ra sao và thú vị như thế nào!
Theo Informationweek
Advertisement
Daily Video
Xem nhiều nhất
-
Tập Đoàn SCCP (Singapore) vừa ra mắt Swiff - giải pháp thương mại di động sáng tạo với hệ thống giao dịch toàn trình (end-to-end) đầu tiên t...
-
Việc bảo quản và sử dụng đúng cách các thiết bị phần cứng giúp cho thời gian sử dụng một chiếc máy tính được kéo dài hơn. Sau đây là những m...
-
Xin chào các bạn! Ngày nay, công nghệ thông tin(CNTT) đã trở thành một loại hình rất quen thuộc đối với mỗi con người chúng ta. Nó đã mở r...
-
Adobe Photoshop hiện nay đang nổi tiếng vì giúp designers và editors trong công việc của họ. Nó chuyển hình ảnh thành kiệt tác. Tính linh h...
-
Trong các trường học và văn phòng làm việc, một số trang web đặc biệt được người dùng ưa thích như trang mạng xã hội MySpace hay Facebook th...

















