Hiển thị các bài đăng có nhãn mac. Hiển thị tất cả bài đăng
Phần mềm chứa mã độc có thể khiến người dùng phải trả chi phí lớn cho số điện thoại mà họ đã đăng ký trên máy tính.
Trojan SMSSend xuất hiện trên máy tính Mac.
Apple hôm nay tung ra bản cập nhật danh sách đen các phần mềm độc hại Xprotect để bảo vệ Mac OS X khỏi phần mềm gián điệp mới xuất hiện hai ngày nay. SMSSend ban đầu trông giống một ứng dụng cài đặt bình thường khi đòi hỏi người dùng nhập số điện thoại (trong khung thông tin) và điền vào mã xác nhận được gửi thông qua tin nhắn. Tuy nhiên, công việc này vô tình đã khiến chủ sở hữu đăng ký một dịch vụ đắt tiền và số phải trả cho hóa đơn cuối tháng là rất lớn.
Loại mã độc này đã có trên các hệ điều hành khác nhưng đây là lần đầu tiên nhắm đến những người dùng Mac.
Apple gần đây đã tỏ ra "dịu giọng" khi tuyên bố về các chiến lược quảng bá trước đó rằng Mac miễn dịch với virus. Việc tăng trưởng về số người dùng sẽ khiến hệ điều hành này bắt đầu nằm trong tầm ngắm của các hacker nhằm đột nhập hệ thống cũng như lấy cắp thông tin người dùng. Tuy nhiên, việc nâng cấp diễn ra chỉ 2 ngày sau khi malware xuất hiện cũng là một nỗ lực đáng khen của Apple.
Theo VNE
Có rất nhiều tổ hợp phím tắt trong Mac, nó giúp chúng ta có thể làm nhanh một thao tác nào đó cực kỳ nhanh chỉ với 2 hoặc 3 phím. Để xem toàn bộ các phím tắt của Mac, bạn có thể vào System Preferences > Keyboard > Keyboard Shortcuts. Nếu một lý do nào đó như không thuận tay hay đã quen các phím tắt trên các một hệ điều hành khác thì bạn cũng có thể thay đổi lại một số tổ hợp phím trên Mac cho phừ hợp với mình theo hướng dẫn sau đây.
Hướng dẫn bằng video, bạn nào không xem video được thì đọc bài viết bên dưới nhé:
Vào System Preferences > Keyboard.
Chuyển qua thẻ Keyboard Shortcuts. Khung bên trái sẽ hiển thị danh mục các phần mềm trong máy tính, còn khung bên phải sẽ hiển thị các chức năng tương ứng trong các phần mềm đó. Mặc định một số phím tắt của hệ thống bạn không thể thay đổi được, nhưng một số cái lại cho phép bạn thay đổi tùy ý.
Dạo ra một số mục chức năng, nếu bạn thấy cái nào bên phải ghi chữ "none" có nghĩa là chức năng đó chưa có phím tắt, nếu muốn dùng thì bạn có thể bật nó lên bằng cách đánh dấu chọn phía trước dòng đó rồi nhấn chuột vào chữ "none" để đặt phím tắt cho nó.
Hướng dẫn bằng video, bạn nào không xem video được thì đọc bài viết bên dưới nhé:
Chuyển qua thẻ Keyboard Shortcuts. Khung bên trái sẽ hiển thị danh mục các phần mềm trong máy tính, còn khung bên phải sẽ hiển thị các chức năng tương ứng trong các phần mềm đó. Mặc định một số phím tắt của hệ thống bạn không thể thay đổi được, nhưng một số cái lại cho phép bạn thay đổi tùy ý.
Dạo ra một số mục chức năng, nếu bạn thấy cái nào bên phải ghi chữ "none" có nghĩa là chức năng đó chưa có phím tắt, nếu muốn dùng thì bạn có thể bật nó lên bằng cách đánh dấu chọn phía trước dòng đó rồi nhấn chuột vào chữ "none" để đặt phím tắt cho nó.
Thay đổi phím tắt của từng phần mềm một
Trên Mac, bạn có thể dùng tổ hợp Cmd+Q để tắt phần mềm đi, Cmd+H để ẩn xuống hay Cmd+, để vào mục cài đặt của nó, tất cả các phần mềm trên Mac đều dùng chung những tổ hợp phím này. Nếu bạn muốn thay đổi lại chúng thì trong cửa sổ Keyboard Shortcuts, khung bên trái bạn chọn Application Shortcuts, sau đó bấm nút có hình dấu cộng:
Trên Mac, bạn có thể dùng tổ hợp Cmd+Q để tắt phần mềm đi, Cmd+H để ẩn xuống hay Cmd+, để vào mục cài đặt của nó, tất cả các phần mềm trên Mac đều dùng chung những tổ hợp phím này. Nếu bạn muốn thay đổi lại chúng thì trong cửa sổ Keyboard Shortcuts, khung bên trái bạn chọn Application Shortcuts, sau đó bấm nút có hình dấu cộng:
- Ô Application: chọn tên phần mềm bạn muốn đổi (ví dụ Safari.app, hoặc chọn All Applications nếu muốn áp dụng trên toàn bộ các phần mềm).
- Menu Title: gõ chính xác tên Menu chức năng muốn thay đổi, ví dụ chức năng thoát của Safari là "Quit Safari". Bạn có thể xem trong menu của phần mềm để biết tên chính xác của nó là gì.
- Keyboard Shortcut: gõ lại tổ hợp phím khác mà bạn mong muốn, ví dụ như Alt+Cmd+Q.
Nguồn: Tinhte
Thay vì làm việc với những icon màu xanh nhàm chán, bạn có thể chọn bất kỳ bức ảnh ưa thích nào để làm icon cho thư mục trong Mac OS chỉ với 3 bước đơn giản sau đây.
1. Chọn thư mục muốn đổi icon và nhấn Cmd + I để mở bảng thông tin của thư mục.
2. Bây giờ bạn mở bất kỳ bức ảnh nào bạn muốn. Chẳng hạn bạn mở ảnh bằng Preview rồi nhấn Cmd + A để chọn, tiếp theo nhấn Cmd + C để copy ảnh.
3. Nhấn chuột vào hình thu nhỏ của icon ở bên phải bảng thông tin của thư mục mà bạn đã mở, sau đó nhấnCmd + V để dán ảnh.
Lúc này, icon của thư mục đã thay đổi theo ý bạn. Với thủ thuật đơn giản này, bạn có thể bắt đầu tổ chức lại các thư mục trong Mac OS để thuận tiện hơn cho quá trình làm việc hoặc tìm kiếm thư mục.
Nếu không muốn sử dụng icon này nữa, bạn chỉ cần mở lại bảng thông tin của thư mục, nhấn vào hình thu nhỏ của icon rồi nhấn Delete.
1. Chọn thư mục muốn đổi icon và nhấn Cmd + I để mở bảng thông tin của thư mục.
2. Bây giờ bạn mở bất kỳ bức ảnh nào bạn muốn. Chẳng hạn bạn mở ảnh bằng Preview rồi nhấn Cmd + A để chọn, tiếp theo nhấn Cmd + C để copy ảnh.
3. Nhấn chuột vào hình thu nhỏ của icon ở bên phải bảng thông tin của thư mục mà bạn đã mở, sau đó nhấnCmd + V để dán ảnh.
Lúc này, icon của thư mục đã thay đổi theo ý bạn. Với thủ thuật đơn giản này, bạn có thể bắt đầu tổ chức lại các thư mục trong Mac OS để thuận tiện hơn cho quá trình làm việc hoặc tìm kiếm thư mục.
Nếu không muốn sử dụng icon này nữa, bạn chỉ cần mở lại bảng thông tin của thư mục, nhấn vào hình thu nhỏ của icon rồi nhấn Delete.
Theo XHTT
Người dùng máy Mac có thể tắt máy hoặc khởi động lại nhanh bằng cách sử dụng các tổ hợp phím tắt.
Các sản phẩm máy tính của Apple đang ngày một phổ biến tại Việt Nam với hệ điều hành OS X đẹp và dễ sử dụng. Nhiều tính năng trên hệ điều hành này không chỉ được kích hoạt hệ thống menu mà còn có thể được gọi lên bằng phím tắt. Hãy cùng khám phá một số phím tắt quản lý quá trình khởi động máy trên OS X.
Menu Power
Không giống những dòng Mac di động (MacBook Pro, MacBook Air), phím nguồn của các dòng Mac để bàn (iMac, Mac Mini) được thiết kế ở trên thùng máy. Thay vì với tay ra sau máy để tìm phím này, người dùng có thể kích hoạt nhanh trình đơn Power bằng tổ hợp phím Control - Eject ngay trên bàn phím. Sau khi một cửa sổ hiện ra, bạn có thể bấm phím Enter để tắt máy nhanh hoặc có ba lựa chọn khác là khởi động lại, Sleep và tắt trình cửa sổ này.Soft Shutdown
Soft Shutdown là cách tắt máy nhanh nhưng mọi dữ liệu vẫn được lưu lại an toàn. Để thực hiện Soft Shutdown sử dụng tổ hợp phím Control - Option - Command - Eject.
Hard Reset
Nếu hệ thống Mac bị treo hoặc bạn không thể sử dụng các tác vụ hiện tại hay muốn thoát hoàn toàn những ứng dụng đang bị lỗi, bạn có thể thực hiện Hard Reset bằng cách giữ hai phím Option và Command đồng thời bấm nút nguồn để khởi động lại máy.
Hard Shutdown
Thay vì Hard Reset, người dùng có thể lựa chọn Hard Shutdown khi máy Mac bị treo. Để thực hiện Hard Shutdown, giữ nút nguồn trong khoảng 5-10 giây. Cả Hard Reset và Hard Shutdown chỉ nên sử dụng như lựa chọn cuối cùng khi các cách thức khác không ăn thua.
Sleep
Thay vì tắt hay khởi động lại máy, bạn có thể sử dụng tính năng Sleep. Khi ở chế độ Sleep, máy Mac luôn sẵn sàng để tiếp tục làm việc và tiêu tốn ít năng lượng. Để chuyển sang chế độ Sleep chỉ cần gập máy lại (đối với các dòng MacBook) hoặc bấm tổ hợp phím Command - Option - Eject.
Tắt màn hình
Với tổ hợp phím Shift - Control - Eject, bạn có thể tắt màn hình mà không tắt cả hệ thống. Ở chế độ này, người dùng chỉ cần bấm một phím bất kì và màn hình đăng nhập sẽ hiện ra.
Ngoài ra, nếu không muốn sử dụng phím tắt, người dùng có thể lựa chọn các chế độ tắt máy ở ngay màn hình chủ bằng cách bấm vào logo Apple ().
Theo Genk
Có cách nào để chọn và chặn những website mà trẻ em không nên truy cập từ máy tính Mac của Apple? Ý tưởng tạo 2 tài khoản cho con, gồm 1 tài khoản chỉ để truy cập thông tin giáo dục và tài khoản dành cho ngoài giờ học để con giao tiếp hoặc chat webcam với bạn bè, người thân hoặc truy cập website dành cho trẻ em liệu có khả thi?
Thực tế, Internet đã trở nên quá phổ biến và người sử dụng có thể truy cập vào rất nhiều trang web chỉ với vài cú nhấp chuột. Tuy nhiên, có một số trang web mà các bậc cha mẹ không muốn con cái mình truy cập.
Dưới đây là hướng dẫn cách chặn truy cập website dành cho những ai dùng máy MAC được tham khảo từ trang TUAW.
Đầu tiên, chạy ứng dụng System Preferences.app bằng cách mở Apple menu hoặc tìm trong tập tinApplications ở mục Finder.
Tiếp theo, mở mục User & Groups, sau đó nhấn vào nút dấu "+" ở phía dưới, bên trái. (Lưu ý rằng biểu tượng ổ khóa phải ở trạng thái mở trước).
Sau khi cửa sổ New Account hiện ra, chọn mục Managed with Parental Controls và nhập thông tin vào các ô.
Tiếp đó, ấn vào Create User để tạo tài khoản. Lúc này, màn hình sẽ hiện cửa sổ dưới đây:
Ấn vào Open Parental Controls bạn sẽ thấy cửa sổ sau hiện ra:
Lúc này, ấn vào nút tròn ngay cạnh mục "Allow access to only these websites" (chỉ cho phép truy cập các trang web này) và ấn vào nút dấu "+" để thêm hoặc "–" để gỡ bỏ các trang web được phép truy cập.
Hệ điều hành Mac OS X quản lí quyền truy cập vào các trang mạng được cho phép bằng cách thiết lập một địa chỉ proxy và gửi tất cả lưu lượng truy cập thông qua địa chỉ này. Điều này có nghĩa là dù sử dụng bất kì ứng dụng nào, thì người dùng cũng chỉ có thể truy cập được các trang web nằm trong danh sách cho phép.
Ngoài ra, bạn cũng có thể thiết lập các cài đặt khác thông qua mục Parental Controls ở phần ứng dụngSystem Preferences.app.
Nguồn: Vnreview
Dòng MacBook Pros và iMacs của Apple đã bắt đầu hỗ trợ khe cắm thẻ nhớ Secure Digital (SD). Bạn có thể dễ dàng sử dụng cổng kết nối này để chuyển dữ liệu, từ video, ảnh... từ camera tới Mac.
Với thủ thuật sau đây, bạn còn tạo được thẻ SD có thể boot vào hệ điều hành, rất hữu ích và tiện dụng khi cứu hộ dữ liệu.
Thẻ SD có thể boot vào Mac OS X là công cụ cứu hộ thật sự tiện dụng
Điều kiện cần thiết:
- Máy MacBook Pro hoặc iMac 2009 tích hợp khe cắm SD
- Đĩa DVD cài hệ điều hành Mac OS X
- Khuyến cáo sử dụng thẻ SD tốc độ cao (chẳng hạn SanDisk Extreme III 16GB hoặc 32GB hay thẻ SanDisk Extreme III 8GB). Lưu ý: các thẻ SD khác có thể làm việc nhưng tốc độ sẽ chậm hơn.
- Đĩa cài các ứng dụng, công cụ cứu hộ bạn muốn sử dụng
Các bước tạo thẻ SD có thể boot:
Tùy chọn chuẩn bị cài đặt Mac OS X lên thẻ SD
1. Cắm thẻ SD vào khe cắm chuyên dụng của MacBook Pro hoặc iMac.
2. Chạy ứng dụng Disk Utility. Từ Macintosh HD > Applications > Utilities
3. Chọn thẻ SD bên phía trái Disk Utility
4. Click vào Partition; sau đó, ở tùy biến Volume Scheme, thay đổi thành một phân vùng
5. Điền, chọn ở phần Volume Information các thông tin sau:
Name: MPB13_SD_BOOT
Format: Mac OS Extended (Journaled)
Size: 15.59 GB cho thẻ SD 16GB
6. Nhấp vào nút Options và chọn GUID Partition Table, tiếp đến nhấp vào OK.
7. Nhấp vào Apply và sau đó nhấp Partition.
Disk Utility sẽ chuẩn bị và format thẻ SD. Tiếp đến, bạn đã có thể cài Mac OS X lên thẻ.
Cài đặt Mac OS X lên thẻ SD:
Cài đặt các ứng dụng, công cụ khắc phục lỗi hệ thống, cứu hộ
1. Đưa đĩa cài đặt Mac OS X vào MacBook Pro hoặc iMac
2. Nhấp đúp chuột vào biểu tượng cài đặt Mac OS X
Lưu ý: ở màn hình cài đặt, hệ thống sẽ thông báo cho bạn biết cần ít nhất 11,6 GB để chứa Mac OS X. Điều đó có nghĩa thẻ SD 8 GB không đủ chứa. Chúng ta sẽ giải quyết vấn đề này trong chốc lát.
3. Chọn Destination là thẻ SD bạn đã chuẩn bị
4. Nhấp Continue
5. Ở màn hình hiển thị tiến trình cài đặt, nhấp vào Customize
6. Bạn sẽ được giới thiệu danh sách các ứng dụng được cài đặt. Hãy bỏ chọn: Printer Drivers, Additional Fonts, Language Translations và X11. Nhờ đó, dung lượng sau khi cài đặt của Mac OS X Leopard sẽ giảm xuống còn 6.2GB. Nhấp vào Done.
7. Nhấp Install và Mac OS X sẽ bắt đầu được cài đặt lên thẻ SD. Quá trình này sẽ mất hơn 1 giờ. Khi đã kết thúc, chọn các thông số theo mặc định là được.
Lúc này, bạn đã có thể boot vào Mac từ chính thẻ SD. Hãy khởi động lại Mac khi giữ nút Option. Tới Startup Manager, bạn chỉ cần lựa chọn thẻ SD là xong.
Một khi thẻ SD của bạn đã có thể boot, công việc cuối là lựa chọn ứng dụng muốn cài đặt. Bạn nên cài một số phần mềm hữu ích như DiskWarrior, Drive Genius 2, FileSalvage, và TechTool Pro 5, rất hiệu quả khi cứu hộ. Ngoài ra, thẻ SD cứu hộ của bạn cũng nên có các công cụ chẩn đoán hệ thống như Activity Monitor, Console, Terminal, Disk Utility và System Profiler.
Source: Maclife
Những gì mà chúng ta có thể thực hiện trong một cửa sổ Terminal sử dụng các công cụ unix cũng có thể thực hiện trong Network Utility. Khi mở Network Utility chúng ta sẽ thấy 9 tab khác nhau tương ứng với 9 tiện ích của Network Utility. Sau đây chúng ta sẽ đì tìm hiểu những gì mà chúng ta có thể thực hiện với 9 tiện ích này.
1. Info
Tab đầu tiên của Netwok Utility, Info, cung cấp cho chúng ta một số thông tin tổng quát về mạng mà chúng ta đang kết nối. Menu thả xuống Network Interface (giao tiếp mạng) hiển thị mọi phương pháp khác nhau mà Mac có thể sử dụng để kết nối mạng. Thông thường, những phương thức này bao gồm: Ethernet, Wireless và Firewire.
Tiếp theo là thông tin về Hardware Address và IP Address. Trong trường hợp giao tiếp mạng đã kết nối, chúng ta sẽ chỉ có một địa chỉ IP, nếu không nó sẽ hiển thị là Unknown (không nhận biết được). Hardware Address, hay Mac Address, có thể được sử dụng để xác định một hệ thống là duy nhất (mặc dù chúng ta có thể thay đổi địa chỉ này).
Một trường hợp địa chỉ Mac rất hữu dụng là khi cài đặt Router Wifi. Chúng ta có thể cài đặt cho hầu hết Router chỉ cho phép những địa chỉ Mac cụ thể kết nối tới, nghĩa là những người dùng không được chỉ định sẽ không thể đăng nhập vào mạng Wifi cuae bạn và kết nối tới Internet.
2. Netstat
Netstat là một công cụ gỡ rối mạng rất hữu dụng của quản trị viên, tuy nhiên nó lại không được người dùng thông thường đánh giá cao. Nếu lựa chọn tùy chọn Display routing table information rồi click Netstat, chúng ta sẽ thấy một danh sách liệt kê mọi máy tính trên mạng.
Còn nếu lựa chọn tùy chọn Display the state of all current socket connections rồi click Netstat chúng ta sẽ thấy danh sách các kết nối mạng của hệ thống. Ví dụ, những mục đầu tiên trong danh sách sẽ tương ứng với những trang Web đã truy cập. Nếu nhập những địa chỉ dạng số vào Foreign Address trong Safari, thì có thể trang web đó sẽ hiển thị.
3. AppleTalk
Tab AppleTalk khá giống với tab Netstat, tuy nhiên chỉ dành riêng cho một giao thức của Apple có tên AppleTalk. Giao thức này từng được sử dụng khá phổ biến trong giai đoạn sơ khai của Mac, nhưng giờ đây nó đã bị ruồng bỏ và không còn được hỗ trợ trong Snow Leopard (trong Snow Leopard tab này không còn xuất hiện nữa).
4. Ping
Ping là một công cụ được sử dụng để kiểm tra xem địa chỉ Internet có hoạt động hay không. Khi ping một địa chỉ, chúng ta đã gửi một lượng dữ liệu nhỏ sau đó nó được gửi trở lại.
Chúng ta có thể sử dụng công cụ này để kiểm tra xem một trang web nào đó bị sập hay chưa nếu nó không tải được trong Safari. Hoặc trong trường hợp kết nối mạng có dấu hiệu bị sập thì chúng ta có thể ping những trang không bao giờ bị sập, như google.com, bbc.co.uk, … để kiểm tra xem có vấn đề với mạng hay không.
5. Lookup
1. Info
Tab đầu tiên của Netwok Utility, Info, cung cấp cho chúng ta một số thông tin tổng quát về mạng mà chúng ta đang kết nối. Menu thả xuống Network Interface (giao tiếp mạng) hiển thị mọi phương pháp khác nhau mà Mac có thể sử dụng để kết nối mạng. Thông thường, những phương thức này bao gồm: Ethernet, Wireless và Firewire.
Tiếp theo là thông tin về Hardware Address và IP Address. Trong trường hợp giao tiếp mạng đã kết nối, chúng ta sẽ chỉ có một địa chỉ IP, nếu không nó sẽ hiển thị là Unknown (không nhận biết được). Hardware Address, hay Mac Address, có thể được sử dụng để xác định một hệ thống là duy nhất (mặc dù chúng ta có thể thay đổi địa chỉ này).
Một trường hợp địa chỉ Mac rất hữu dụng là khi cài đặt Router Wifi. Chúng ta có thể cài đặt cho hầu hết Router chỉ cho phép những địa chỉ Mac cụ thể kết nối tới, nghĩa là những người dùng không được chỉ định sẽ không thể đăng nhập vào mạng Wifi cuae bạn và kết nối tới Internet.
2. Netstat
Netstat là một công cụ gỡ rối mạng rất hữu dụng của quản trị viên, tuy nhiên nó lại không được người dùng thông thường đánh giá cao. Nếu lựa chọn tùy chọn Display routing table information rồi click Netstat, chúng ta sẽ thấy một danh sách liệt kê mọi máy tính trên mạng.
Còn nếu lựa chọn tùy chọn Display the state of all current socket connections rồi click Netstat chúng ta sẽ thấy danh sách các kết nối mạng của hệ thống. Ví dụ, những mục đầu tiên trong danh sách sẽ tương ứng với những trang Web đã truy cập. Nếu nhập những địa chỉ dạng số vào Foreign Address trong Safari, thì có thể trang web đó sẽ hiển thị.
3. AppleTalk
Tab AppleTalk khá giống với tab Netstat, tuy nhiên chỉ dành riêng cho một giao thức của Apple có tên AppleTalk. Giao thức này từng được sử dụng khá phổ biến trong giai đoạn sơ khai của Mac, nhưng giờ đây nó đã bị ruồng bỏ và không còn được hỗ trợ trong Snow Leopard (trong Snow Leopard tab này không còn xuất hiện nữa).
4. Ping
Ping là một công cụ được sử dụng để kiểm tra xem địa chỉ Internet có hoạt động hay không. Khi ping một địa chỉ, chúng ta đã gửi một lượng dữ liệu nhỏ sau đó nó được gửi trở lại.
Chúng ta có thể sử dụng công cụ này để kiểm tra xem một trang web nào đó bị sập hay chưa nếu nó không tải được trong Safari. Hoặc trong trường hợp kết nối mạng có dấu hiệu bị sập thì chúng ta có thể ping những trang không bao giờ bị sập, như google.com, bbc.co.uk, … để kiểm tra xem có vấn đề với mạng hay không.
Công cụ Lookup cho phép chúng ta thu thập thông tin về một trang Web hay địa chỉ IP. Menu thả xuống của mục Select the information to lookup cho phép chúng ta lựa chọn một số loại thông tin khác nhau. Ví dụ, khi thực hiện tra cứu tên máy chủ trên macosxtips.co.uk chúng ta sẽ được thông báo rằng trang này được lưu trữ bởi máy chủ Dreamhost, và khi tra cứu MX Record (hay Mail Exchange Record) thì chúng ta sẽ được thông báo rằng email được xử lý bởi Google.
6. Traceroute
7. Whois
Khi chúng ta nhập vào một địa chỉ rồi click Trace, Traceroute sẽ hiển thị hường mà dữ liệu được gửi giữa máy trạm và máy chủ. Công cụ này cho phép chúng ta kiểm tra mọi máy chủ mà dữ liệu được chuyển qua.
Chúng ta có thể sử dụng Traceroute để khắc phục một số sự cố mạng qua việc phát hiện điểm chặn dữ liệu. Ngoài ra chúng ta còn có thể sử dụng công cụ này khi tải một file với nhiều liên kết tải khác nhau để lựa chọn một liên kết nhanh nhất. Chỉ cần nhập những liên kết đó vào Traceroute là chúng ta có thể biết liên kết nào là nhanh nhất.
7. Whois
Cơ sở dữ liệu Whois chúng cấp cho chúng ta thông tin về các địa chỉ Internet và những ai đã đăng ký chúng. Máy chủ Whois mặc định, whois.internic.net, hoạt động khá ổn định với hầu hết các địa chỉ, nhưng chú ý chúng ta cần nhập chính xác tên miền. Với những địa chỉ .co.uk sử dụng máy chủ whois là whois.nic.uk. Chúng ta sẽ lấy được thông tin như người đang ký, địa chỉ, thời điểm đăng ký, và thời điểm hết hạn.
8. Finger
9. Port Scan
Được phát triển vào năm 1971, Finger là một trong những mấu đầu tiên của bản cập nhật trạng thái mà hiện nay đang được nhiều trang mạng xã hội sử dụng, như Facebook, Twitter, … Công cụ này gần như không còn được người dùng sử dụng, nhưng với công cụ này chúng ta có thể kiểm tra xem những người bạn của chúng ta hiện có trực tuyến hay không, và có thể đăng những file .plan lên profile như đăng bài lên blog.
Một trong những phương pháp sử dụng Finger hiệu quả nhất đó là nhập tên người dùng của bạn hay tên của người dùng khác trên hệ thống Mac, khi nhấn nút Finger chúng ta sẽ được thông báo cho biết người dùng đó hiện đã đăng nhập hay chưa, và lượng thời gian đăng trước đõ mà người dùng đã thực hiện.
9. Port Scan
Port Scan, tab cuối cùng trong Network Utility, có chức năng kiểm tra những cổng đang được mở tại một địa chỉ nhất định. Những cổng mạng này là một phiên bản ảo của các cổng trên hệ thống, và mội cổng được sử dụng cho một lưu lượng mạng khác nhau. Ví dụ, cổng 80 được sử dụng cho các trang Web.
Chúng ta có thể sử dụng Port Scan để kiểm tra máy tính các nhân bằng cách nhập theo mẫu [tên máy tính].local. Khi nhấn Scan chúng ta sẽ thấy tên này xuất hiện trong vùng Sharing của System Preferences.
Những công cụ như iTunes Sharing, Instant Messaging, BitTorrent, AFP và SMB Sharing đều sử dụng các cổng khác nhau. Nếu thấy một trong những cổng này không hoạt động, có thể là do hệ thống tường lửa đã chặn nó, khi đó chúng ta có thể thay đổi cấu hình để mở lại.
Chúng ta có thể sử dụng Port Scan để kiểm tra máy tính các nhân bằng cách nhập theo mẫu [tên máy tính].local. Khi nhấn Scan chúng ta sẽ thấy tên này xuất hiện trong vùng Sharing của System Preferences.
Những công cụ như iTunes Sharing, Instant Messaging, BitTorrent, AFP và SMB Sharing đều sử dụng các cổng khác nhau. Nếu thấy một trong những cổng này không hoạt động, có thể là do hệ thống tường lửa đã chặn nó, khi đó chúng ta có thể thay đổi cấu hình để mở lại.
Chỉ cần chạy Port Scan với ứng dụng hay tắt Sharing rồi bật lại để kiểm tra những cổng xuất hiện. Sau đó chúng ta có thể cài đặt hệ thống tường lửa mở cổng này và cho phép lưu lượng mạng truyền qua nó. Lưu ý rằng hệ thống tường lửa tích hợp trong Mac OS X vận hành trên một nền tảng ứng dụng hơn là một nền tảng cổng để đơn giản hóa các tác vụ cho người dùng.
Source: MacOSXTips
Công ty của bạn – hay người sử dụng – quyết định rằng nhu cầu tin học của một doanh nghiệp được tối ưu hóa với những chiếc máy tính Mac long lanh. Hoặc có lẽ bạn thấy lợi ích tài chính của việc sử dụng sản phẩm Apple. Vậy, bạn sẽ sử dụng ứng dụng nào trên những chiếc máy này? Có rất nhiều lựa chọn thích hợp cho doanh nghiệp, nhưng có 7 giải pháp mã mở được cho là “phải có” đối với người sử dụng Mac ở nơi làm việc.
Bạn cần lời khuyên về việc lựa chọn giải pháp mã mở cho doanh nghiệp? Các chuyên gia của chúng tôi sẵn sàng chia sẻ lời khuyên trong việc đánh giá ứng dụng mã mở thương mại.
1. Kể cả doanh nghiệp được chuẩn bị chu đáo nhất cũng có thể sa lầy hoặc tàn lụi nếu không chú ý đến những chi tiết nhỏ. Tuy nhiên quản lý tất cả các mặt của một dự án là một công việc nặng nhọc. OpenProj là một chương trình quản lý dự án mạnh; nó có thể chuẩn bị đồ thị, biểu đồ và tất cả các loại báo cáo để giúp cho con thuyền doanh nghiệp của bạn hoạt động trơn tru. OpenProj có thể xử lý dữ liệu ngân sách, biểu thời gian, đồ thị Gantt, quản lý tài nguyên, đồng thời nó có thể thực hiện nhiều loại đo lường khác nhau. Mặc dù OpenProj vẫn còn mới trên thị trường đã bị Microsoft thống trị, nhưng theo trang web của công ty, đã có 500,000 lượt tải phần mềm kể từ khi được phát hành chưa đầy 1 năm trước.
2. Moodle từ lâu đã được biết đến như hệ thống quản lý khóa học mã mở ưu việt cho các nhà làm giáo dục, tuy nhiên nó cũng có vị trí nhất định trong môi trường chung. Vì nó được thiết kế cho cộng đồng học tập trực tuyến, Moddle là giải pháp hoàn hảo để quản lý các lớp đào tạo hoặc chương trình phát triển chuyên môn của công ty bạn.
Moodle có thể được sử dụng trên một quy mô đáng kinh ngạc. Nó có thể xử lý hệ thống lớp học 10,000 người dễ dàng như một lớp học 10 người. Vì nó là phần mềm mã mở, Moodle hoàn toàn có thể được sửa đổi theo nhu cầu của công ty. Hàng tá môđun và plugin có thể thêm tính năng cho chương trình, ví dụ như podcasting hay hội nghị truyền hình. Có thể bạn sẽ không thể thuyết phục nhân viên của mình rằng việc đào tạo, huấn luyện là một công việc thích thú, nhưng ít nhất Moodle giúp bạn làm giảm sự nhàm chán của các lớp học đó.
3. AbiWord là ứng dụng xử lý văn bản thường bị bỏ sót, nhưng nó có thể là giải pháp mà một doanh nghiệp mong muốn. AbiWord có chi phí ít hơn so với iWork dùng cho Mac (nó miễn phí), nó dễ dàng sửa đổi hơn chương trình biên tập văn bản khác (nó là mã mở), và nó không năng nề như OpenOffice.org (AbiWord có dung lượng 9MB so với 158MB của OpenOffice.org). Mặc dù phần mềm này thiếu thuyết trình và bảng tính của một bộ phần mềm hoàn chỉnh, nhưng AbiWord là một trình xử lý văn bản mạnh, nhanh và có đầy đủ các tính năng hữu ích bao gồm sửa lỗi chính tả và lựa chọn layout cho văn bản.
4. Mac OS X đi kèm với một phần mềm xem đuôi PDF, nhưng chương trình này không làm được gì khác ngoài việc cho phép bạn xem nội dụng tập tin. Skim là chương trình đọc PDF xuất sắc, đồng thời là công cụ thiết kế riêng cho Mac. Bạn có thể sử dụng Skim để xem một đường link trong một tài liệu, thêm ghi chú, đánh dấu đoạn văn cùng nhiều tính năng khác. Bạn thậm chí có thể sử dụng Skim để tạo thuyết trình đồng thời điều khiển chúng – ngay bên trong phần mềm – bằng một điều khiển Apple. Vì ngày càng nhiều tài liệu được truyền tải hàng ngày dưới dạng tập tin PDF, đây là một ứng dụng không thể bỏ qua.
5. Thời kỳ sử dụng phiếu đục lỗ hay đồng hồ tính giờ làm việc đã qua, nhưng nhu cầu kiểm soát thời gian làm của nhân viên thì chưa. Rachota là một ứng dụng nhỏ và di động có thể sử dụng ở bất cứ đâu và theo dõi nhiều dự án cùng một lúc. Dữ liệu được trình bày gọn gàng dưới dạng biểu đồ và có thể được kết hợp lại thành báo cáo tùy biến cho mục đích phân tích chuyên sâu. Rachota có thể duyệt lại dữ liệu và đưa ra đề nghị về việc làm thế nào để tối đa hoặc cải thiện thời gian của người sử dụng. Rachota hỗ trợ 11 thứ tiếng và có dung lượng nhỏ đủ để đem theo trên một ổ USB nhỏ. Cảnh báo rằng: để ngăn cản việc theo dõi thời gian bừa bãi, ứng dụng này được thiết kế với khả năng chỉnh sửa hạn chế. Khi bạn đã quy định các thông số, rất khó để có thể thay đổi chúng.
6. Cuộc sống không xuất hiện trong không gian. Kể cả bạn làm việc ở nhà hay làm việc trong văn phòng vệ tinh, bạn vẫn cần liên lạc với đồng nghiệp hoặc nhân viên. Zimbra Collaboration Suite (ZCS) phiên bản mã mở cung cấp một bộ sản phẩm tiện lợi bao gồm ứng dụng nhắn tin nhanh, thư điện tử và lịch làm việc để hỗ trợ sự liên lạc giữa các nhân viên của bạn. Nó hoạt động với Microsoft Outlook và các giải pháp máy tính và di động khác. Nó đồng thời có thể được sử dụng trên những nền ứng dụng khác nhau, một phần mềm tiện lợi nếu bạn làm việc trong một văn phòng lẫn lộn các máy tính Mac, Windows và Linux. ZCS phiên bản mã mở cũng sổ địa chỉ, chia sẻ tài liệu cũng như hỗ trợ di động.
7. MacLibre không đơn thuần là một ứng dụng hữu ích, nó là một tập hợp các ứng dụng mã mở Mac OS X. Nó bao gồm các chương trình lớn như biên tập âm thanh Audacitym, biên tập hình ảnh The Gimp, đồ họa Inkscape và tin nhắn nhanh Adium. Ngoài ra nó còn chứa một số ứng dụng ít được biết đến hơn như Desktop Manager và Colloquy IRC, những chương trình này thường bị bỏ sót. Tổng cộng có hơn 20 ứng dụng theo năm mục, biến MacLibre thành điểm dừng chân cho các phần mềm mã mở chất lượng.
Nguồn: QuanTriMang.com.vn
Nếu bạn đang giữ nhiều file và thư mục nhạy cảm và riêng tư trong máy tính, cách tốt nhất để bảo vệ nó khỏi sự nhòm ngó của người khác là mã hóa nó với một mật khẩu mạnh. Trong Mac, nếu bạn muốn mã hóa dữ liệu, thay vì cài đặt các phần mềm mã hóa của các hãng thứ ba bạn có thể sử dụng chức năng disk image để tạo một hộp mã hóa để lưu trữ dữ liệu nhạy cảm. Trong Mac, vào phần Applications > Utilities > Disk Utility
Nhấn vào nút New Image.
Điền vào các thông tin trong cửa sổ này.
Trong trường Volume Size, bạn có thể chọn kích thước của hộp mà bạn muốn tạo. Có một vài tùy chọn được định sẵn bao gồm các kích cỡ CD và DVD khác nhau. Bạn có thể chọn từ danh sách xổ xuống hoặc xác định kích cỡ cần thiết với tùy chọn Custom
Phía dưới Encryption, chọn 128-bit AES encryption. Cũng có một tùy chọn để chọn mã hóa 256 bit, nhưng nó sẽ làm chậm toàn bộ tiến trình.
Trong trường Image Format, chọn read/write disk image
Ở đây là những gì bạn thấy sau khi cấu hình:
Nhấn vào nút Create để tạo ra disk image. Nó sẽ lập tức yêu cầu bạn đưa mật khẩu. Nhập vào mật khẩu của bạn, hãy chắc rằng đó là một mật khẩu mạnh.
Cũng nên nhớ bỏ chọn hộp "Remember password in my keychain", ngược lại nó sẽ làm khó dễ cho mục đích mã hóa dữ liệu của bạn
Một khi disk image đã sẵn sàng, có thể bạn sẽ thấy nó mount ở trên desktop của bạn sẵn sàng để sử dụng. Mở disk image ra trong Finder của bạn và kéo (hoặc copy và paste) các file nhạy cảm vào trong đó. Khi đã hoàn tất, đơn giản là unmount nó. Bất kì ai muốn mở disk image để xem file sẽ phải điền vào mật khẩu mà bạn đã đặt.
Tất cả đã hoàn tất. Bạn đã thành công trong việc tạo ra disk image mã hóa để chứa tất cả các file nhạy cảm. Với disk image mã hóa này, bạn có thể lưu trữ nó trong một góc ổ cứng, mang nó vào trong USB hoặc ghi ra đĩa CD/DVD.
Theo Maketecheasier
Hai trong số các biên tập viên hệ điều hành hàng đầu của chúng tôi, một chuyên gia Mac và một chuyên gia Windows đã tiến hành so sánh các điểm Apple nên xem xét lại khi phát triển dòng Mac OS X 10.5 Leopard.
Có nhiều cách dễ dàng tìm ra điểm đáng chê trách ở Windows XP và Vista: chỉ cần đếm số lỗ hổng bảo mật hay những cơn ác mộng kinh nghiệm người dùng. Khi bạn là gã khổng lồ Goliath của thế giới OS (hệ điều hành), mọi người đều muốn tìm ra cớ nào đó để lật đổ bạn. Nhưng còn về chàng David, hay trong trường hợp này là hãng máy tính Apple của hệ điều hành Mac OS X mà ai cũng biết thì sao? Tìm kiếm lỗ hổng trong hệ điều hành của Apple giống như chọn lựa trên một gã tý hon vậy. Hiện nay Apple xây dựng rất tốt giao diện người dùng cho hệ điều hành của mình và có nền tảng bảo mật khá vững chắc.
Sau hơn 18 tháng ra đời, thậm chí cho đến nay, Mac OS X 10.4 hay Tiger của Apple vẫn được chú ý hơn XP và Vista. Song hệ điều hành này chưa phải là hoàn hảo. OS X có một số lỗi và lỗ hổng riêng, một số điểm gây khó chịu nhỏ. Một số chức năng trong Mac không thật sự linh hoạt, dễ dùng và tiện lợi như Windows.
Có nhiều thành phần và tính năng Apple đã và sẽ bổ sung thêm vào OS X. Nhưng trong bài này chúng tôi không đề cập đến thành phần thiếu mà chỉ tập trung vào 15 điểm yếu nhỏ đã có trong OS X, cần đến sự tinh tế hơn hoặc cần suy nghĩ lại. Các điểm khó chịu này được rút ra từ kinh nghiệm sử dụng Mac hằng ngày của nhiều người dùng được tập hợp lại.
1. Refresh Finder động
Một trong những chức năng tốt nhất của Mac là hầu hết các thay đổi bạn thực hiện đều có hiệu quả ngay lập tức và tự động được update động cho tất cả mọi hệ điều hành mở. Ở nhiều nơi trong hệ điều hành, bạn không phải kích vào "Save" hay "OK" hay khởi động lại máy tính để các thay đổi có tác dụng. Chỉ một chỗ chúng tôi tìm ra rằng nó không đồng bộ như các thành phần khác của Finder, không thể tự động update động các thay đổi đã có trong hệ điều hành mở. Nếu có thể, thiết nghĩ Apple nên nâng cấp để toàn bộ thành phần đều update tự động được 100%. Nếu các nhà chế tạo Mac không thể làm điều đó, ít nhất họ cũng nên bổ sung thêm tuỳ chọn Refresh cho Finder.
2. Lệnh Cut của Finder
Không có cách nào để Cut (cắt) một file trong Finder. Cách dùng phổ biến trong Windows là Edit > Cut và Edit > Paste để chuyển một file từ vị trí này sang vị trí khác. Còn Finder thực hiện tương đối dễ bằng cách kéo và thả. Nhưng đôi khi cách đó rất bất tiện, nhất là trên các màn hình Mac nhỏ. Trong trường hợp đó, để cắt được một file trên một cửa sổ, bạn nên xác định hướng tới cửa sổ khác và dán file với nhiều khả năng tuỳ chọn. Dù Finder cung cấp câu lệnh Cut trong menu Edit của nó nhưng câu lệnh này không làm việc trên file. Nếu bạn dùng lệnh bàn phím để thay thể (Ctrl+X và Ctrl+V chẳng hạn), nó sẽ để lại file ban đầu đúng chỗ. Nói cách khác lúc đó nó thực hiện câu lệnh Copy chứ không phải Cut.
3. Quản lý chức năng View Columns của Finder, vấn đề số 3
Vấn đề thứ ba có thể xuất hiện khi cửa sổ "Column view Finder" (xem cột) được mở ra như là một phần của hộp thoại ứng dụng. Trong thiết lập này, khi đi sâu vào cấu trúc phân bậc thư mục, có thể bạn sẽ thấy rằng mặt bên trái của cửa sổ Finder được đưa ra khỏi màn hình. Đó là do các điểm bắt đầu được neo chặt trong vị trí của hộp thoại ứng dụng. Đôi khi bạn cũng sẽ thấy rằng các nút cần ấn (như Save, Open, New Folder, …) thường nằm trong các màn hình tắt ở một nơi nào đó mỗi khi bạn định hướng để chuyển tới vị trí phù hợp trong các thư mục có thứ bậc. Dù điều đó không xảy ra thường xuyên nhưng như thế cũng là khá tệ.
4. Quản lý chức năng View Columns của Finder, vấn đề số 2
Vấn đề thứ hai là các cột cố gắng tự động mở rộng kích thước để hiển thị đầy đủ (hoặc đầy đủ hơn) tên các thư mục và file bên trong chúng. Nếu bạn ấn phím Option (tuỳ chọn) khi đang kéo một điểm chốt sang phải hoặc trái, Finder sẽ mở rộng tất cả cột cùng một lúc. Đó là một số giúp đỡ hữu ích, nhưng không phải là lý tưởng.
5. Quản lý chức năng View Columns của Finder, vấn đề số 1
Chức năng "xem cột" (view columns) của Finder cung cấp cấu trúc hiển thị có thứ tự cho các thư mục liền kề khá đẹp mắt và tiện dụng. Bạn có thể thấy và hiểu được ngay lập tức. Nó cũng có thể cuộn tự động đúng tới điểm bạn kích ở từng mức nối tiếp. Nhưng có ba khía cạnh khó chịu ở đây. Thứ nhất là đôi khi phạm vi cột mở ra quá hẹp khiến bạn khó đọc nội dung thư mục và file của nó. Apple chỉ đặt các điểm chốt ở cuối từng cột. Nên thiết lập toàn bộ bộ phận tách cột. Ít nhất cũng nên có các điểm chốt ở đầu và cuối từng cột.
6. Màn hình laptop mờ
Bạn có thể thay đổi chế độ ánh sáng màn hình trong Energy Saver, thiết lập nó mờ dần trước khi máy tính tắt. Hoặc bạn có thể thiết lập để sử dụng ánh sáng yếu hơn khi pin mạnh. (Đó là một cách tiết kiệm năng lượng cho pin laptop). Nhưng đáng tiếc không phải lúc nào các thiết lập bạn thực hiện cũng hoạt động như ý muốn. Màn hình sẽ vẫn mờ đi trong khoảng 3-4 phút cho dù bạn can thiệp, sử dụng pin mạnh hay nguồn điện AC hay không. Đến nay có thể nói rằng chế độ mờ hoá tự động màn hình không thể cấu hình cho người dùng. Apple xây dựng chức năng mờ dần khi tắt khá thông minh ngay cả nếu bạn đang xem một đĩa DVD. Nhưng đáng tiếc nó lại gây ra sự bực mình mà người dùng có thể thẳng tay bỏ nó đi.
7. Không nhất quán giao diện người dùng (UI)
Mở iTunes, Safari và Mail ra, cả ba chương trình này đều là của Apple, nhưng chúng trông lại khá khác nhau. Safari giống như các ứng dụng Apple khác (Finder, Address Book) sử dụng giao diện kiểu brushed-metal (trải theo kiểu đường tàu). iTunes lại có khung xám theo kiểu gun-metal (kiểu súng) và các thanh cuộn không bóng. Mail thì kết hợp cả màu xám của brushed-metal và gun-metal với các thanh cuộn màu xanh sáng bóng truyền thống. Apple được cho là ông vua giao diện trong nhiều lĩnh vực. Nhưng ba ứng dụng từ cùng một công ty được dùng rộng rãi này có nên trông quá khác nhau? Đôi khi tính nhất quán cũng rất đáng quan tâm.
8. Cài đặt máy in
Chương trình cấu hình máy in trong OS X dễ gây nhầm lẫn. Bởi vì các màn hình cấu hình máy in làm việc không hề giống như phong cách Mac của Apple. Bạn có thể thực hiện tốt hơn nó.
9. Các phím Backspace và Delete
Thế giới có hàng triệu máy tính có phím Backspace (xoá trái) và Delete (xoá phải). Nhưng trong máy tính xách tay của Mac thì chỉ có một phím Backspace (còn gọi là "Delete" trong Mac). Điều này gây khá nhiều bực mình cho người sử dụng, nhất là các biên tập viên và nhà văn. Dù biết rằng Fn-Delete cũng thực hiện chức năng xoá phải nhưng đó không phải là giải pháp hữu hiệu cho những người đánh máy.
Từ lâu thế giới đã thừa nhận bàn phím của IBM là tiêu chuẩn phù hợp và phổ biến rộng rãi nhất. Vì sao Apple lại không chấp nhận tiêu chuẩn đó? Có lẽ là vì chưa có ai thực sự kêu ca về bàn phím Apple.
Đối với người dùng Windows thì lại khác. Họ thực sự bực mình với bàn phím Mac notebook, nhất là vấn đề thiếu phím xoá phải. Chúng tôi khuyên bạn nên sử dụng phần mềm miễn phí Preference Pane có tên gọi "Double Command" do Michael Baltaks viết.
Sử dụng chương trình này bạn có thể biến đổi một phím thành phím Delete. Giữ phím Function (chức năng) và ấn phím muốn chuyển đổi có ký hiệu gạch chéo, bạn sẽ không bị mất chức năng đó. DoubleCommand cũng cho phép bạn chuyển tổ hợp phím Shift-Delete thành phím xoá sau. Còn có nhiều tuỳ chỉnh khác có thể bạn cũng sẽ thích.
10. Quản lý kích thước cửa sổ
Chương trình quản lý cửa sổ khá cứng ngắc. Người dùng thậm chí không thể thay đổi kích thước cửa sổ chỉ bằng cách kéo nó. Ở Microsoft Word, bạn có thể kéo bất kỳ một trong số bốn cạnh khung làm việc. Hơn nữa bạn còn có thể co giãn cả hai cạnh cửa sổ cùng một lúc từ một góc bất kỳ trong bốn góc của nó. Có một số lần, khi kéo một mặt cửa sổ đơn, bạn có thể loại trừ được cả hai yếu tố điều chỉnh trên Mac: cửa sổ được xác định lại kích thước theo sau bởi một cửa sổ di chuyển. Khi dùng cả hai hệ điều hành có thể bạn sẽ thấy rõ rằng Mac không tiện lợi hơn so với Windows khi muốn thay đổi lại kích thước cho cửa sổ. Nhưng cách thức Windows thực hiện một số đòi hỏi yêu cầu điều khiển chuột chính xác cũng có thể gây phiền hà khá nhiều cho người dùng.
Đây là ý tường khá đơn giản và có thể giải quyết được 80% vấn đề. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Apple tạo cả hai góc thấp hơn cho cửa sổ có thể kéo của Mac? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu thực hiện cho cả bốn góc? Chỉ là ý tưởng gợi ý, có thể nó không đáng kể gì.
11. Văn bản và các ứng dụng trên Dock
Dock làm một công việc thông minh là khởi động và theo dõi các ứng dụng đã được khởi động. Nhưng nhược điểm của nó bộc lộ khi theo dõi các cửa sổ văn bản và các phiên hoạt động của chương trình. Bạn có thể kích phải chuột lên chương trình đang chạy trên Dock để xem và chọn giữa các cửa sổ mở kết hợp với chương trình đó, nhưng bạn chỉ có một cách duy nhất để làm và một số ứng dụng không hỗ trợ điều này. Xin được nhắc lại là: menu ngữ cảnh không bao giờ chỉ nên là giao diện người dùng (UI) cho mục đích truy cập một thứ gì đó. Dock ở tất cả các phần khác khá tinh tế và thậm chí còn được đánh giá là "khéo léo". Nhưng trong trường hợp này thì nó khá tệ hại.
12. Không nhất quán về cách dùng các menu ngữ cảnh
Apple nên cho phép sử dụng toàn bộ menu ngữ cảnh trong Finder và các phần mềm Apple khác. Chúng tôi không nói rằng Apple nên dùng chỉ một mình menu ngữ cảnh ngay cả trên các khía cạnh nhỏ bé của giao diện người dùng, đó là sai lầm của Windows và các nhà phát triển thuộc nhóm thứ ba. Nhưng menu ngữ cảnh là các shorcut chương trình hữu ích trực quan hơn cho người dùng giàu kinh nghiệm. Không ai ép buộc phải dùng chúng, vì thế chẳng có lý do gì mà người dùng Mac phải buồn về thay đổi này ở OS X. Họ hoàn toàn có thể lựa chọn một trong hai cách làm việc ưa thích phù hợp với mình.
13. Widget không được đặt đúng chỗ trên Desktop
Bảng đồng hồ (dashboard) rất đẹp, nhưng cách thức "tất cả hoặc không có gì" của nó lại khá bực mình. Chúng ta muốn kéo và thả các winget riêng vào desktop? Giả dụ như chúng ta không muốn có quá nhiều trên màn hình? có thể bạn sẽ thấy thích hơn nếu chúng không quá rộng. Dashboard (bảng đồng hồ) trông khá tuyệt, nhưng đôi khi muốn dùng bảng tính để tính toán, bạn sẽ không có được đầy đủ tính năng như ý nguyện. Cũng có một số chức năng kiểu readout (dữ liệu ra) có thể bạn sẽ thích. Sidebar của Windows Vista tốt hơn một chút so với Dashboard vì nó có thể hiển thị tuỳ chọn tại bất kỳ thời gian nào, hoặc bạn phải đặt Sidebar Gadgets riêng trên desktop.
14. Không hiển thị ngày tháng hiện tại
Ở tất cả các thành phần tiện ích, một trong những điểm dữ liệu rõ ràng nhất mà cả Mac và Windows đều thực hiện một cách khá phù hợp là hiển thị thông tin ngày hệ thống. Bạn đã biết hôm nay là thứ Năm hay thứ Sáu, nhưng bạn không dám chắc là ngày mùng 7 hay mùng 8 tháng mười hai? Chẳng có thông tin nào mà con người hay quên hơn là ngày hôm nay thứ mấy, hôm nay là ngày bao nhiêu. Vì có khi bạn vừa hỏi, nhưng mải làm việc khác lại quên và hỏi lại tới cả chục lượt trong cùng một ngày. Rõ ràng đây là thông tin máy tính rất nên hiển thị.
Apple có cung cấp thông tin ngày tháng màu xám trên menu. Nó sẽ mở ra khi bạn kích vào mặt đồng hồ ở mặt bên phải của menu chính. Còn Windows thể hiện nó trên một pop-up (dòng thông tin hiện lên) khi bạn trỏ chuột vào đồng hồ trên thanh taskbar. Nhưng ở Vista, Windows vẫn không có bộ lịch riêng. Mọi người vẫn phải sử dụng hộp thoại cấu hình thiết lập thời gian, đồng hồ của Windows XP để kiểm tra ngày tháng trong lịch. (Kết quả là họ thường thay đổi dữ liệu ngày tháng hệ thống một cách tình cờ, khiến họ có thể phải nhận cảnh báo chống sao chép lậu từ chương trình WGA (Windows Genuine Advantage) khá khó chịu của Vista).
Ở Apple có hai sự lựa chọn. Nếu có thể (và chúng tôi nghĩ là nên), bổ sung thêm một vùng ngày tháng 6 chữ số cơ sở vào thanh menu chính của đồng hồ. Nó có thể hiển thị là Dec-07, hoặc 07-Dec. Xem xét tới tất cả các chương trình khác có gắn biểu tượng vào khu vực này, Apple sẽ không thấy hối tiếc khi dùng không gian đó để hiển thị ngày hệ thống. Bỏ qua ngày trong tuần nếu bạn phải làm điều đó, hoặc để cho nó thành tuỳ chọn. Hoặc bạn có thể đặt biểu tượng iCal vào Dock để hiển thị động thông tin ngày tháng hôm nay vào bất kỳ lúc nào. Thông tin sẽ được hiển thị tự động mỗi khi iCal chạy. Ý tưởng này quả không tồi chút nào.
Có nhiều cách dễ dàng tìm ra điểm đáng chê trách ở Windows XP và Vista: chỉ cần đếm số lỗ hổng bảo mật hay những cơn ác mộng kinh nghiệm người dùng. Khi bạn là gã khổng lồ Goliath của thế giới OS (hệ điều hành), mọi người đều muốn tìm ra cớ nào đó để lật đổ bạn. Nhưng còn về chàng David, hay trong trường hợp này là hãng máy tính Apple của hệ điều hành Mac OS X mà ai cũng biết thì sao? Tìm kiếm lỗ hổng trong hệ điều hành của Apple giống như chọn lựa trên một gã tý hon vậy. Hiện nay Apple xây dựng rất tốt giao diện người dùng cho hệ điều hành của mình và có nền tảng bảo mật khá vững chắc.
Sau hơn 18 tháng ra đời, thậm chí cho đến nay, Mac OS X 10.4 hay Tiger của Apple vẫn được chú ý hơn XP và Vista. Song hệ điều hành này chưa phải là hoàn hảo. OS X có một số lỗi và lỗ hổng riêng, một số điểm gây khó chịu nhỏ. Một số chức năng trong Mac không thật sự linh hoạt, dễ dùng và tiện lợi như Windows.
Có nhiều thành phần và tính năng Apple đã và sẽ bổ sung thêm vào OS X. Nhưng trong bài này chúng tôi không đề cập đến thành phần thiếu mà chỉ tập trung vào 15 điểm yếu nhỏ đã có trong OS X, cần đến sự tinh tế hơn hoặc cần suy nghĩ lại. Các điểm khó chịu này được rút ra từ kinh nghiệm sử dụng Mac hằng ngày của nhiều người dùng được tập hợp lại.
1. Refresh Finder động
Một trong những chức năng tốt nhất của Mac là hầu hết các thay đổi bạn thực hiện đều có hiệu quả ngay lập tức và tự động được update động cho tất cả mọi hệ điều hành mở. Ở nhiều nơi trong hệ điều hành, bạn không phải kích vào "Save" hay "OK" hay khởi động lại máy tính để các thay đổi có tác dụng. Chỉ một chỗ chúng tôi tìm ra rằng nó không đồng bộ như các thành phần khác của Finder, không thể tự động update động các thay đổi đã có trong hệ điều hành mở. Nếu có thể, thiết nghĩ Apple nên nâng cấp để toàn bộ thành phần đều update tự động được 100%. Nếu các nhà chế tạo Mac không thể làm điều đó, ít nhất họ cũng nên bổ sung thêm tuỳ chọn Refresh cho Finder.
2. Lệnh Cut của Finder
Không có cách nào để Cut (cắt) một file trong Finder. Cách dùng phổ biến trong Windows là Edit > Cut và Edit > Paste để chuyển một file từ vị trí này sang vị trí khác. Còn Finder thực hiện tương đối dễ bằng cách kéo và thả. Nhưng đôi khi cách đó rất bất tiện, nhất là trên các màn hình Mac nhỏ. Trong trường hợp đó, để cắt được một file trên một cửa sổ, bạn nên xác định hướng tới cửa sổ khác và dán file với nhiều khả năng tuỳ chọn. Dù Finder cung cấp câu lệnh Cut trong menu Edit của nó nhưng câu lệnh này không làm việc trên file. Nếu bạn dùng lệnh bàn phím để thay thể (Ctrl+X và Ctrl+V chẳng hạn), nó sẽ để lại file ban đầu đúng chỗ. Nói cách khác lúc đó nó thực hiện câu lệnh Copy chứ không phải Cut.
3. Quản lý chức năng View Columns của Finder, vấn đề số 3
Vấn đề thứ ba có thể xuất hiện khi cửa sổ "Column view Finder" (xem cột) được mở ra như là một phần của hộp thoại ứng dụng. Trong thiết lập này, khi đi sâu vào cấu trúc phân bậc thư mục, có thể bạn sẽ thấy rằng mặt bên trái của cửa sổ Finder được đưa ra khỏi màn hình. Đó là do các điểm bắt đầu được neo chặt trong vị trí của hộp thoại ứng dụng. Đôi khi bạn cũng sẽ thấy rằng các nút cần ấn (như Save, Open, New Folder, …) thường nằm trong các màn hình tắt ở một nơi nào đó mỗi khi bạn định hướng để chuyển tới vị trí phù hợp trong các thư mục có thứ bậc. Dù điều đó không xảy ra thường xuyên nhưng như thế cũng là khá tệ.
4. Quản lý chức năng View Columns của Finder, vấn đề số 2
Vấn đề thứ hai là các cột cố gắng tự động mở rộng kích thước để hiển thị đầy đủ (hoặc đầy đủ hơn) tên các thư mục và file bên trong chúng. Nếu bạn ấn phím Option (tuỳ chọn) khi đang kéo một điểm chốt sang phải hoặc trái, Finder sẽ mở rộng tất cả cột cùng một lúc. Đó là một số giúp đỡ hữu ích, nhưng không phải là lý tưởng.
5. Quản lý chức năng View Columns của Finder, vấn đề số 1
Chức năng "xem cột" (view columns) của Finder cung cấp cấu trúc hiển thị có thứ tự cho các thư mục liền kề khá đẹp mắt và tiện dụng. Bạn có thể thấy và hiểu được ngay lập tức. Nó cũng có thể cuộn tự động đúng tới điểm bạn kích ở từng mức nối tiếp. Nhưng có ba khía cạnh khó chịu ở đây. Thứ nhất là đôi khi phạm vi cột mở ra quá hẹp khiến bạn khó đọc nội dung thư mục và file của nó. Apple chỉ đặt các điểm chốt ở cuối từng cột. Nên thiết lập toàn bộ bộ phận tách cột. Ít nhất cũng nên có các điểm chốt ở đầu và cuối từng cột.
6. Màn hình laptop mờ
Bạn có thể thay đổi chế độ ánh sáng màn hình trong Energy Saver, thiết lập nó mờ dần trước khi máy tính tắt. Hoặc bạn có thể thiết lập để sử dụng ánh sáng yếu hơn khi pin mạnh. (Đó là một cách tiết kiệm năng lượng cho pin laptop). Nhưng đáng tiếc không phải lúc nào các thiết lập bạn thực hiện cũng hoạt động như ý muốn. Màn hình sẽ vẫn mờ đi trong khoảng 3-4 phút cho dù bạn can thiệp, sử dụng pin mạnh hay nguồn điện AC hay không. Đến nay có thể nói rằng chế độ mờ hoá tự động màn hình không thể cấu hình cho người dùng. Apple xây dựng chức năng mờ dần khi tắt khá thông minh ngay cả nếu bạn đang xem một đĩa DVD. Nhưng đáng tiếc nó lại gây ra sự bực mình mà người dùng có thể thẳng tay bỏ nó đi.
7. Không nhất quán giao diện người dùng (UI)
Mở iTunes, Safari và Mail ra, cả ba chương trình này đều là của Apple, nhưng chúng trông lại khá khác nhau. Safari giống như các ứng dụng Apple khác (Finder, Address Book) sử dụng giao diện kiểu brushed-metal (trải theo kiểu đường tàu). iTunes lại có khung xám theo kiểu gun-metal (kiểu súng) và các thanh cuộn không bóng. Mail thì kết hợp cả màu xám của brushed-metal và gun-metal với các thanh cuộn màu xanh sáng bóng truyền thống. Apple được cho là ông vua giao diện trong nhiều lĩnh vực. Nhưng ba ứng dụng từ cùng một công ty được dùng rộng rãi này có nên trông quá khác nhau? Đôi khi tính nhất quán cũng rất đáng quan tâm.
8. Cài đặt máy in
Chương trình cấu hình máy in trong OS X dễ gây nhầm lẫn. Bởi vì các màn hình cấu hình máy in làm việc không hề giống như phong cách Mac của Apple. Bạn có thể thực hiện tốt hơn nó.
9. Các phím Backspace và Delete
Thế giới có hàng triệu máy tính có phím Backspace (xoá trái) và Delete (xoá phải). Nhưng trong máy tính xách tay của Mac thì chỉ có một phím Backspace (còn gọi là "Delete" trong Mac). Điều này gây khá nhiều bực mình cho người sử dụng, nhất là các biên tập viên và nhà văn. Dù biết rằng Fn-Delete cũng thực hiện chức năng xoá phải nhưng đó không phải là giải pháp hữu hiệu cho những người đánh máy.
Từ lâu thế giới đã thừa nhận bàn phím của IBM là tiêu chuẩn phù hợp và phổ biến rộng rãi nhất. Vì sao Apple lại không chấp nhận tiêu chuẩn đó? Có lẽ là vì chưa có ai thực sự kêu ca về bàn phím Apple.
Đối với người dùng Windows thì lại khác. Họ thực sự bực mình với bàn phím Mac notebook, nhất là vấn đề thiếu phím xoá phải. Chúng tôi khuyên bạn nên sử dụng phần mềm miễn phí Preference Pane có tên gọi "Double Command" do Michael Baltaks viết.
Sử dụng chương trình này bạn có thể biến đổi một phím thành phím Delete. Giữ phím Function (chức năng) và ấn phím muốn chuyển đổi có ký hiệu gạch chéo, bạn sẽ không bị mất chức năng đó. DoubleCommand cũng cho phép bạn chuyển tổ hợp phím Shift-Delete thành phím xoá sau. Còn có nhiều tuỳ chỉnh khác có thể bạn cũng sẽ thích.
10. Quản lý kích thước cửa sổ
Chương trình quản lý cửa sổ khá cứng ngắc. Người dùng thậm chí không thể thay đổi kích thước cửa sổ chỉ bằng cách kéo nó. Ở Microsoft Word, bạn có thể kéo bất kỳ một trong số bốn cạnh khung làm việc. Hơn nữa bạn còn có thể co giãn cả hai cạnh cửa sổ cùng một lúc từ một góc bất kỳ trong bốn góc của nó. Có một số lần, khi kéo một mặt cửa sổ đơn, bạn có thể loại trừ được cả hai yếu tố điều chỉnh trên Mac: cửa sổ được xác định lại kích thước theo sau bởi một cửa sổ di chuyển. Khi dùng cả hai hệ điều hành có thể bạn sẽ thấy rõ rằng Mac không tiện lợi hơn so với Windows khi muốn thay đổi lại kích thước cho cửa sổ. Nhưng cách thức Windows thực hiện một số đòi hỏi yêu cầu điều khiển chuột chính xác cũng có thể gây phiền hà khá nhiều cho người dùng.
Đây là ý tường khá đơn giản và có thể giải quyết được 80% vấn đề. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Apple tạo cả hai góc thấp hơn cho cửa sổ có thể kéo của Mac? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu thực hiện cho cả bốn góc? Chỉ là ý tưởng gợi ý, có thể nó không đáng kể gì.
11. Văn bản và các ứng dụng trên Dock
Dock làm một công việc thông minh là khởi động và theo dõi các ứng dụng đã được khởi động. Nhưng nhược điểm của nó bộc lộ khi theo dõi các cửa sổ văn bản và các phiên hoạt động của chương trình. Bạn có thể kích phải chuột lên chương trình đang chạy trên Dock để xem và chọn giữa các cửa sổ mở kết hợp với chương trình đó, nhưng bạn chỉ có một cách duy nhất để làm và một số ứng dụng không hỗ trợ điều này. Xin được nhắc lại là: menu ngữ cảnh không bao giờ chỉ nên là giao diện người dùng (UI) cho mục đích truy cập một thứ gì đó. Dock ở tất cả các phần khác khá tinh tế và thậm chí còn được đánh giá là "khéo léo". Nhưng trong trường hợp này thì nó khá tệ hại.
12. Không nhất quán về cách dùng các menu ngữ cảnh
Apple nên cho phép sử dụng toàn bộ menu ngữ cảnh trong Finder và các phần mềm Apple khác. Chúng tôi không nói rằng Apple nên dùng chỉ một mình menu ngữ cảnh ngay cả trên các khía cạnh nhỏ bé của giao diện người dùng, đó là sai lầm của Windows và các nhà phát triển thuộc nhóm thứ ba. Nhưng menu ngữ cảnh là các shorcut chương trình hữu ích trực quan hơn cho người dùng giàu kinh nghiệm. Không ai ép buộc phải dùng chúng, vì thế chẳng có lý do gì mà người dùng Mac phải buồn về thay đổi này ở OS X. Họ hoàn toàn có thể lựa chọn một trong hai cách làm việc ưa thích phù hợp với mình.
13. Widget không được đặt đúng chỗ trên Desktop
Bảng đồng hồ (dashboard) rất đẹp, nhưng cách thức "tất cả hoặc không có gì" của nó lại khá bực mình. Chúng ta muốn kéo và thả các winget riêng vào desktop? Giả dụ như chúng ta không muốn có quá nhiều trên màn hình? có thể bạn sẽ thấy thích hơn nếu chúng không quá rộng. Dashboard (bảng đồng hồ) trông khá tuyệt, nhưng đôi khi muốn dùng bảng tính để tính toán, bạn sẽ không có được đầy đủ tính năng như ý nguyện. Cũng có một số chức năng kiểu readout (dữ liệu ra) có thể bạn sẽ thích. Sidebar của Windows Vista tốt hơn một chút so với Dashboard vì nó có thể hiển thị tuỳ chọn tại bất kỳ thời gian nào, hoặc bạn phải đặt Sidebar Gadgets riêng trên desktop.
14. Không hiển thị ngày tháng hiện tại
Ở tất cả các thành phần tiện ích, một trong những điểm dữ liệu rõ ràng nhất mà cả Mac và Windows đều thực hiện một cách khá phù hợp là hiển thị thông tin ngày hệ thống. Bạn đã biết hôm nay là thứ Năm hay thứ Sáu, nhưng bạn không dám chắc là ngày mùng 7 hay mùng 8 tháng mười hai? Chẳng có thông tin nào mà con người hay quên hơn là ngày hôm nay thứ mấy, hôm nay là ngày bao nhiêu. Vì có khi bạn vừa hỏi, nhưng mải làm việc khác lại quên và hỏi lại tới cả chục lượt trong cùng một ngày. Rõ ràng đây là thông tin máy tính rất nên hiển thị.
Apple có cung cấp thông tin ngày tháng màu xám trên menu. Nó sẽ mở ra khi bạn kích vào mặt đồng hồ ở mặt bên phải của menu chính. Còn Windows thể hiện nó trên một pop-up (dòng thông tin hiện lên) khi bạn trỏ chuột vào đồng hồ trên thanh taskbar. Nhưng ở Vista, Windows vẫn không có bộ lịch riêng. Mọi người vẫn phải sử dụng hộp thoại cấu hình thiết lập thời gian, đồng hồ của Windows XP để kiểm tra ngày tháng trong lịch. (Kết quả là họ thường thay đổi dữ liệu ngày tháng hệ thống một cách tình cờ, khiến họ có thể phải nhận cảnh báo chống sao chép lậu từ chương trình WGA (Windows Genuine Advantage) khá khó chịu của Vista).
Ở Apple có hai sự lựa chọn. Nếu có thể (và chúng tôi nghĩ là nên), bổ sung thêm một vùng ngày tháng 6 chữ số cơ sở vào thanh menu chính của đồng hồ. Nó có thể hiển thị là Dec-07, hoặc 07-Dec. Xem xét tới tất cả các chương trình khác có gắn biểu tượng vào khu vực này, Apple sẽ không thấy hối tiếc khi dùng không gian đó để hiển thị ngày hệ thống. Bỏ qua ngày trong tuần nếu bạn phải làm điều đó, hoặc để cho nó thành tuỳ chọn. Hoặc bạn có thể đặt biểu tượng iCal vào Dock để hiển thị động thông tin ngày tháng hôm nay vào bất kỳ lúc nào. Thông tin sẽ được hiển thị tự động mỗi khi iCal chạy. Ý tưởng này quả không tồi chút nào.
Theo Computerworld
Advertisement
Daily Video
Xem nhiều nhất
-
Tập Đoàn SCCP (Singapore) vừa ra mắt Swiff - giải pháp thương mại di động sáng tạo với hệ thống giao dịch toàn trình (end-to-end) đầu tiên t...
-
Việc bảo quản và sử dụng đúng cách các thiết bị phần cứng giúp cho thời gian sử dụng một chiếc máy tính được kéo dài hơn. Sau đây là những m...
-
Xin chào các bạn! Ngày nay, công nghệ thông tin(CNTT) đã trở thành một loại hình rất quen thuộc đối với mỗi con người chúng ta. Nó đã mở r...
-
Adobe Photoshop hiện nay đang nổi tiếng vì giúp designers và editors trong công việc của họ. Nó chuyển hình ảnh thành kiệt tác. Tính linh h...
-
Trong các trường học và văn phòng làm việc, một số trang web đặc biệt được người dùng ưa thích như trang mạng xã hội MySpace hay Facebook th...































